MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN TÌNH TRẠNG RỐI LOẠN ĐIỆN GIẢI Ở BỆNH NHÂN BỆNH THẬN MẠN TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH TRÀ VINH

Mục tiêu: Khảo sát một số yếu tố liên quan đến tình trạng rối loạn điện giải ở bệnh nhân bệnh thận mạn. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 287 bệnh nhân được chẩn đoán bệnh thận mạn đang điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Trà Vinh từ tháng 6 đến tháng 9 năm 2023. Kết quả: Những bệnh nhân mắc tăng huyết áp có tỷ lệ rối loạn điện giải Na+ gấp 3,21 lần nhóm bệnh nhân không mắc bệnh tăng huyết áp (p < 0,05). Nhóm bệnh nhân mắc bệnh đái tháo đường có rối loạn điện giải Na+ gấp 1,71 lần so với nhóm bệnh nhân không mắc bệnh đái tháo đường (p < 0,05). Kết quả nghiên cứu ghi nhận tình trạng rối loạn điện giải K+ xảy ra ưu thế ở những đối tượng bệnh thận mạn có kèm theo bệnh tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn lipid máu. Tuy nhiên sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Nhóm bệnh nhân rối loạn lipid máu có tình trạng rối loạn điện giải Ca2+ gấp 1,28 lần nhóm bệnh nhân không mắc rối loạn lipid máu (p < 0,05). Những trường hợp rối loạn điện giải Ca2+ chiếm ưu thế ở bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn V (p > 0,05). Tình trạng rối loạn điện giải Ca2+ ở những người có lọc máu cao hơn 1,24 lần so với những người không lọc máu (p < 0,05). Kết luận: Tình trạng rối loạn điện giải Na+, K+ ở bệnh nhân bệnh thận mạn có liên quan với tình trạng tăng huyết áp và đái tháo đường. Tỷ lệ rối loạn điện giải Ca2+ chiếm ưu thế ở bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn V. Tình trạng rối loạn điện giải Ca2+ ở những người bệnh thận mạn có lọc máu chiếm tỷ lệ cao hơn ở bệnh nhân không lọc máu.

SUMMARY

SOME FACTORS RELATED TO ELECTROLYTE DISORDERS IN PATIENTS WITH CHRONIC KIDNEY DISEASE AT TRA VINH PROVINCE GENERAL HOSPITAL

Objective: Survey some factors related to electrolyte disorders in patients with chronic kidney disease. Subjects and methods: Cross-sectional descriptive study on 287 patients diagnosed with chronic kidney disease who being treated at Tra Vinh Province General Hospital from June 2023 to September 2023. Results: Patients with hypertension had a rate of Na+ electrolyte disorders 3.21 times higher than the group of patients without hypertension (p < 0.05). The group of patients with diabetes had 1.71 times more Na+ electrolyte disorders than the group of patients without diabetes (p < 0.05). Research results show that K+ electrolyte disorders occur predominantly in subjects with chronic kidney disease accompanied by hypertension, diabetes, and dyslipidemia. However, the difference is not statistically significant (p > 0.05). The group of patients with dyslipidemia had Ca2+ electrolyte disorders 1.28 times more than the group of patients without dyslipidemia (p < 0.05). Cases of Ca2+ electrolyte disorders predominate in patients with stage V chronic kidney disease (p > 0.05). Ca2+ electrolyte disturbance in people with dialysis was 1.24 times higher than in people without dialysis (p < 0.05). Conclusions: Na+, K+ electrolyte disorders in chronic kidney disease patients are associated with hypertension and diabetes. The rate of Ca2+ electrolyte disorders predominates in patients with chronic kidney disease stage V. The rate of Ca2+ electrolyte disorders in chronic kidney disease patients with dialysis is higher than in patients without dialysis.

Bệnh thận mạn là một vấn đề cấp bách và hiện được công nhận là ưu tiên sức khỏe cộng đồng trên toàn thế giới [9]. Tổn thương thận xảy ra từ từ trong nhiều năm. Nhiều người không có bất kỳ triệu chứng nào cho đến khi bệnh thận ở giai đoạn nặng. Bệnh thận mạn ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh bao gồm sức khỏe, thể chất, xã hội, tăng gánh nặng bệnh tật, tử vong do bệnh tim mạch, chất lượng cuộc sống thấp, giảm năng suất, mất việc làm, áp lực gia đình và rối loạn tâm thần, đồng thời cũng ảnh hưởng đến kinh tế, tài chính quốc gia [6].

Bệnh thận mạn gia tăng rất nhanh chóng ở tất cả các quốc gia và toàn cầu. Tỷ lệ mắc bệnh thận mạn trên toàn thế giới được ước tính là gần 11 - 13% [11] và trên toàn cầu vào năm 2017 ước tính có gần 700 triệu người mắc bệnh thận mạn và 1,2 triệu người chết vì các rối loạn liên quan đến bệnh thận mạn [5]. Bệnh nhân mắc bệnh thận mạn sẽ xuất hiện những biến chứng khác như biến chứng về phổi, tim mạch, thần kinh, tiêu hoá, rối loạn lipid máu, loạn dưỡng xương,... Rối loạn điện giải (RLĐG) cũng là một trong biến chứng quan trọng thường gặp trong bệnh thận mạn [13].

Vì vậy, việc phát hiện và điều trị rối loạn điện giải ở bệnh nhân bệnh thận mạn là rất quan trọng để giảm thiểu các biến chứng tiêu cực đối với sức khỏe con người. Tuy nhiên, các phương pháp điều trị rối loạn điện giải cần được cân nhắc kỹ lưỡng vì sự quá mức hoặc thiếu hụt các chất điện giải đều có thể gây ra các vấn đề ảnh hưởng nguy hiểm đến sức khoẻ. Do đó, các nghiên cứu liên quan đến rối loạn điện giải ở bệnh nhân bệnh thận mạn đang thu hút sự quan tâm đặc biệt của cộng đồng y tế. Chính vì thế, đề tài nghiên cứu về rối loạn điện giải ở bệnh nhân bệnh thận mạn là vô cùng cần thiết và có ý nghĩa lớn trong việc cải thiện chất lượng cuộc sống và sức khỏe cho bệnh nhân mắc bệnh thận mạn. Việc chẩn đoán và điều trị rối loạn điện giải ở bệnh nhân bệnh thận mạn có ý nghĩa quan trọng nhằm giúp giảm tỷ lệ tử vong và biến chứng liên quan đến rối loạn điện giải. Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu khảo sát một số yếu tố liên quan đến tình trạng rối loạn điện giải ở bệnh nhân bệnh thận mạn đang điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Trà Vinh.

2.ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

  1. 1.Đối tượng nghiên cứu:

Tiêu chuẩn chọn bệnh

Bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh thận mạn (BTM) theo tiêu chuẩn KDIGO 2012 đang khám và điều trị tại Bệnh viện Đa khoa Tỉnh Trà Vinh, đồng ý tham gia nghiên cứu.

Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu. Bệnh nhân gặp khó khăn trong quá trình giao tiếp, không tỉnh táo, sức khỏe không cho phép trả lời những câu hỏi của người khảo sát, không nghe, không nói được. Bệnh nhân mắc các bệnh lý kèm theo: suy tim, rối loạn ăn uống, nghiện rượu, chấn thương, bệnh lý tuyến giáp, tuyến cận giáp.

  1. 2 Phương pháp nghiên cứu:

Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả.

Phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu thuận tiện. Các bệnh nhân thỏa điều kiện sẽ được tham gia nghiên cứu.

Thời gian nghiên cứu: từ tháng 6/2023 đến tháng 9/2023

Cỡ mẫu nghiên cứu được tính theo công thức:

MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN TÌNH TRẠNG RỐI LOẠN ĐIỆN GIẢI  Ở BỆNH NHÂN BỆNH THẬN MẠN  TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH TRÀ VINH

n: Cỡ mẫu nghiên cứu

α: Mức ý nghĩa thống kê. Chọn α = 0,05 tương ứng với độ tin cậy là 95%.

Như vậy

MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN TÌNH TRẠNG RỐI LOẠN ĐIỆN GIẢI  Ở BỆNH NHÂN BỆNH THẬN MẠN  TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH TRÀ VINH

p: Tỷ lệ hiện mắc (%). Ước tính ở mức độ cao nhất ở thời điểm nghiên cứu.

Lấy p = 16,7 % (Tham khảo từ nghiên cứu của Nguyễn Hữu Sơn) [12].

d: Khoảng sai lệch mong muốn cho phép giữa tham số mẫu và quần thể. Chọn d = 0,05

Tính được cỡ mẫu tối thiểu là 214. Trên thực tế, nghiên cứu đã thu được cỡ mẫu là 287

Nội dung nghiên cứu: Phân tích mối liên quan giữa tình trạng rối loạn điện giải và một số yếu tố như: tình trạng béo phì, tăng huyết áp, đái tháo đường, rối oạn lipid máu, bệnh tim mạch, thời gian mắc bệnh, giai đoạn bệnh và tình trạng lọc máu…

Xử lý và phân tích số liệu: Nhập liệu bằng phần mềm Epidata 3.1 và phân tích bằng phần mềm Stata 14.

3.KẾT QUẢ

3.1. Các yếu tố liên quan đến tình trạng rối loạn Na+

Bảng 1. Mối liên quan giữa rối loạn điện giải Na+ với các bệnh kèm theo ở bệnh nhân bệnh thận mạn (n = 287)

Yếu tố liên quan

Rối loạn điện giải Na+

PR (KTC 95%)

p

n (%)

Không

n (%)

Béo phì

8 (36,36)

14 (63,64)

1,44 (0,80 - 2,60)

0,256

Không

67 (25,28)

198 (74,72)

Tăng huyết áp

71 (29,22)

172 (70,78)

3,21 (1,24 - 8,34)

0,005

Không

4 (9,09)

40 (90,91)

Đái tháo đường

25 (38,46)

40 (61,54)

1,71 (1,15 - 2,53)

0,010

Không

50 (22,52)

172 (77,48)

Rối loạn lipid máu

13 (36,11)

23 (63,89)

1,46 (0,90 - 2,38)

0,145

Không

62 (24,70)

189 (75,30)

Bệnh tim mạch

25 (30,49)

57 (69,51)

1,25 (0,83 - 1,88)

0,288

Không

50 (24,39)

155 (75,61)

Bệnh gout

5 (14,71)

29 (85,29)

0,53 (0,23 - 1,22)

0,106

Không

70 (27,67)

183 (72,33)

Sỏi thận

3 (50,00)

3 (50,00)

2,00 (0,86 - 4,45)

0,186

Không

72 (25,62)

209 (74,38)

Nhận xét:

Nhóm bệnh nhân mắc tăng huyết áp có tỷ lệ RLĐG Na+ gấp 3,21 lần nhóm bệnh nhân không mắc tăng huyết áp. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).

Nhóm bệnh nhân mắc bệnh đái tháo đường có tỷ lệ RLĐG Na+ gấp 1,71 lần nhóm bệnh nhân không mắc bệnh đái tháo đường. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).

Bảng 2. Mối liên quan giữa rối loạn điện giải Na+ với giai đoạn bệnh, thời gian mắc bệnh và tình trạng lọc máu ở bệnh nhân bệnh thận mạn (n = 287)

Yếu tố liên quan

Rối loạn điện giải Na+

PR (KTC 95%)

p

n (%)

Không

n (%)

Giai đoạn BTM

I

1 (50,00)

1 (50,00)

1

0,700

II

2 (28,57)

5 (71,43)

0,57 (0,05 - 6,30)

IIIa

4 (26,67)

11 (73,33)

0,53 (0,06 - 4,77)

IIIb

2 (12,50)

14 (87,50)

0,25 (0,23 - 2,76)

IV

6 (21,43)

22 (78,57)

0,43 (0,05 - 3,56)

V

60 (27,40)

159 (72,60)

0,55 (0,76 - 3,95)

Thời gian mắc BTM

Dưới 5 năm

55 (28,06)

141 (71,94)

0,78 (0,50 - 1,23)

0,275

Từ 5 năm trở lên

20 (21,98)

71 (78,02)

Lọc máu

54 (26,60)

149 (73,40)

1,06 (0,69 - 1,64)

0,779

Không

21 (25,00)

63 (75,00)

Nhận xét: Không tìm thấy có sự liên quan giữa có RLĐG Na+ với các giai đoạn BTM, thời gian mắc BTM và tình trạng lọc máu (p > 0,05).

3.2. Các yếu tố liên quan đến tình trạng rối loạn K+

Bảng 3. Mối liên quan giữa rối loạn điện giải K+ với các bệnh kèm theo ở bệnh nhân bệnh thận mạn (n = 287)

Yếu tố liên quan

Rối loạn điện giải K+

PR (KTC 95%)

p

n (%)

Không

n (%)

Béo phì

7 (31,82)

15 (68,18)

0,97 (0,51 - 1,83)

0,923

Không

87 (32,83)

178 (67,17)

Tăng huyết áp

81 (33,33)

162 (66,67)

1,13 (0,70 - 1,84)

0,622

Không

13 (29,55)

31 (70,45)

Đái tháo đường

26 (40,00)

39 (60,00)

1,31 (0,91 - 1,87)

0,157

Không

68 (30,63)

154 (69,37)

Rối loạn lipid máu

14 (38,89)

22 (61,11)

1,22 (0,78 - 1,91)

0,402

Không

80 (31,87)

171 (68,13)

Bệnh tim mạch

23 (28,05)

59 (71,95)

0,81 (0,55 - 1,20)

0,283

Không

71 (34,63)

134 (65,37)

Bệnh gout

12 (35,29)

22 (64,71)

1,09 (0,67 - 1,78)

0,737

Không

82 (32,41)

171 (67,59)

Sỏi thận

2 (33,33)

4 (66,67)

1,02 (0,32 - 3,20)

1,000

Không

92 (32,74)

189 (67,26)

Nhận xét:

Nhóm tình trạng RLĐG K+ xảy ra ưu thế ở những bệnh nhân bệnh tăng huyết áp gấp 1,13 lần nhóm bệnh nhân không mắc tăng huyết áp. Tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).

Nhóm bệnh nhân mắc bệnh đái tháo đường xảy RLĐG K+ gấp 1,31 lần nhóm bệnh nhân không mắc bệnh đái tháo đường. Sự khác biệt này không ý nghĩa thống kê (p > 0,05).

Nhóm bệnh nhân mắc bệnh rối loạn lipid máu có tỷ lệ RLĐG K+ gấp 1,22 lần nhóm bệnh nhân không mắc bệnh rối loạn lipid máu. Sự khác biệt này không ý nghĩa thống kê (p > 0,05).

Bảng 4. Mối liên quan giữa rối loạn điện giải K+ với giai đoạn, thời gian mắc bệnh và tình trạng lọc máu ở bệnh nhân bệnh thận mạn (n = 287)

Yếu tố liên quan

Rối loạn điện giải K+

PR (KTC 95%)

p

n (%)

Không

n (%)

Giai đoạn BTM

I

1 (50,00)

1 (50,00)

1

0,058

II

4 (57,14)

3 (42,86)

1,14 (0,13 - 10,23)

IIIa

1 (6,67)

14 (93,33)

0,13 (0,01 - 2,13)

IIIb

7 (43,75)

9 (56,25)

0,88 (0,11 - 7,11)

IV

12 (42,86)

16 (57,14)

0,86 (0,11 - 6,60)

V

69 (31,51)

150 (68,49)

0,63 (0,09 - 4,54)

Thời gian mắc BTM

Dưới 5 năm

55 (28,06)

141 (71,94)

0,78 (0,50 - 1,23)

0,275

Từ 5 năm trở lên

20 (21,98)

71 (78,02)

Lọc máu

64 (31,53)

139 (68,47)

0,88 (0,62 - 1,25)

0,492

Không

30 (35,71)

54 (64,29)

Nhận xét: Nghiên cứu chưa ghi nhận có sự liên quan giữa có RLĐG K+ với các giai đoạn BTM, thời gian mắc BTM và tình trạng lọc máu ở bệnh nhân bệnh thận mạn (p > 0,05)

3.3. Các yếu tố liên quan đến tình trạng rối loạn Ca2+

Bảng 5. Mối liên quan giữa rối loạn điện giải Ca2+ với các bệnh kèm theo ở bệnh nhân bệnh thận mạn (n = 287)

Yếu tố liên quan

Rối loạn điện giải Ca2+

PR (KTC 95%)

p

n (%)

Không

n (%)

Béo phì

12 (54,55)

10 (45,45)

0,82 (0,56 - 1,21)

0,260

Không

176 (66,42)

89 (33,58)

Tăng huyết áp

157 (64,61)

86 (35,39)

0,92 (0,74 - 1,13)

0,453

Không

31 (70,45)

13 (29,55)

Đái tháo đường

44 (67,69)

21 (32,31)

1,04 (0,86 - 1,27)

0,673

Không

144 (64,86)

78 (35,31)

Rối loạn lipid máu

29 (80,56)

7 (19,44)

1,28 (1,06 - 1,53)

0,042

Không

159 (63,35)

92 (36,65)

Bệnh tim mạch

49 (59,76)

33 (40,24)

0,88 (0,72 - 1,08)

0,195

Không

139 (67,80)

66 (32,20)

Bệnh gout

27 (79,41)

7 (20,59)

1,25 (1,03 - 1,52)

0,069

Không

161 (63,64)

92 (36,36)

Sỏi thận

5 (83,33)

1 (16,67)

1,28 (0,89 - 1,85)

0,668

Không

183 (65,12)

98 (34,88)

Nhận xét: Kết quả ghi nhận nhóm bệnh nhân mắc bệnh rối loạn lipid máu có tỷ lệ RLĐG Ca2+ gấp 1,28 lần nhóm bệnh nhân không mắc bệnh rối loạn lipid máu. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).

Bảng 6. Mối liên quan giữa rối loạn điện giải Ca2+ với giai đoạn, thời gian mắc bệnh và tình trạng lọc máu ở bệnh nhân bệnh thận mạn (n = 287)

Yếu tố liên quan

Rối loạn điện giải Ca2+

PR (KTC 95%)

p

n (%)

Không

n (%)

Giai đoạn BTM

I

1 (50,00)

1 (50,00)

1

0,028

II

7 (100)

0 (0)

2 (0,25 - 16,26)

IIIa

10 (66,67)

5 (33,33)

1,33 (0,17 - 10,42)

IIIb

9 (56,25)

7 (43,75)

1,13 (0,14 - 8,88)

IV

12 (42,86)

16 (57,14)

0,86 (0,11 - 6,60)

V

149 (68,04)

70 (31,96)

1,36 (0,19 - 9,72)

Thời gian mắc BTM

Dưới 5 năm

122 (62,24)

74 (37,76)

1,17 (0,99-1,38)

0,088

Từ 5 năm trở lên

66 (72,53)

25 (27,47)

Lọc máu

141 (69,46)

62 (30,54)

1,24 (1,01 - 1,53)

0,029

Không

47 (55,95)

37 (44,05)

Nhận xét: Nghiên cứu ghi nhận những trường hợp có rối loạn điện giải Ca2+ chiếm ưu thế ở bệnh nhân bệnh thận giai đoạn V. Nhóm bệnh nhân có lọc máu tỷ lệ RLĐG Ca2+ gấp 3,21 lần nhóm bệnh nhân không lọc máu (KTC: 1,01 - 1,53). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).

3.4. Các yếu tố liên quan đến tình trạng rối loạn Cl-

Bảng 7. Mối liên quan giữa rối loạn điện giải Cl- với các bệnh kèm theo ở bệnh nhân bệnh thận mạn (n = 287)

Yếu tố liên quan

Rối loạn điện giải Cl-

PR (KTC 95%)

p

n (%)

Không

n (%)

Béo phì

9 (40,91)

13 (59,09)

1,20 (0,70 - 2,02)

0,534

Không

91 (34,34)

174 (65,66)

Tăng huyết áp

87 (35,80)

156 (64,20)

1,21 (0,75 - 1,97)

0,423

Không

13 (29,55)

31 (70,45)

Đái tháo đường

22 (33,85)

43 (66,15)

0,96 (0,65 - 1,14)

0,848

Không

78 (35,14)

144 (64,86)

Rối loạn lipid máu

8 (22,22)

28 (77,78)

0,61 (0,32 - 1,14)

0,089

Không

92 (36,65)

159 (63,35)

Bệnh tim mạch

28 (34,15)

54 (65,85)

0,97 (0,68 - 1,38)

0,875

Không

72 (35,12)

133 (64,88)

Bệnh gout

12 (35,29)

22 (64,71)

1,01 (0,62 - 1,65)

0,953

Không

88 (34,78)

165 (65,22)

Sỏi thận

2 (33,33)

4 (66,67)

0,96 (0,30 - 3,00)

1,000

Không

98 (34,88)

183 (65,12)

Nhận xét: Kết quả chưa ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa tình trạng rối loạn điện giải Cl- với nhóm bệnh nhân có bệnh béo phì, tăng huyết áp, đái tháo đường, bệnh rối loạn lipid máu, bệnh tim mạch và bệnh gout, bệnh sỏi thận với p > 0,05.

Bảng 8. Mối liên quan giữa rối loạn điện giải Cl- với giai đoạn bệnh, thời gian mắc bệnh, tình trạng lọc máu ở ở bệnh nhân bệnh thận mạn (n = 287).

Yếu tố liên quan

Rối loạn điện giải Cl-

PR (KTC 95%)

p

n (%)

Không

n (%)

Giai đoạn BTM

I

1 (50,00)

1 (50,00)

1

0,553

II

1 (14,29)

6 (85,71)

0,29 (0,02 - 4,57)

IIIa

4 (26,67)

11 (73,33)

0,53 (0,06 - 4,77)

IIIb

7 (43,75)

9 (56,25)

0,88 (0,11 - 7,11)

IV

7 (25,00)

21 (75,00)

0,5 (0,06 - 4,06)

V

80 (36,53)

139 (63,47)

0,73 (0,10 - 5,25)

Thời gian mắc BTM

Dưới 5 năm

69 (35,20)

127 (64,80)

0,97 (0,69 - 1,36)

0,851

Từ 5 năm trở lên

31(34,07)

60 (65,93)

Lọc máu

71 (34,84)

132 (65,02)

1,01 (0,71 - 1,44)

0,942

Không

29 (34,52)

55 (65,48)

Nhận xét: Nghiên cứu chưa ghi nhận có sự liên quan giữa có RLĐG Cl- với các giai đoạn BTM, thời gian mắc BTM và tình trạng lọc máu với giá trị p > 0,05.

4.BÀN LUẬN

Một số yếu tố liên quan đến tình trạng rối loạn Na+ ở bệnh nhân bệnh thận mạn

Nhóm bệnh nhân mắc tăng huyết áp có tỷ lệ RLĐG natri gấp 3,21 lần nhóm bệnh nhân không mắc tăng huyết áp. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Kết quả của chúng tôi có sự khác biệt với nghiên cứu của Kurniawan Adi Lukas và cộng sự tại Khoa Thận tại Bệnh viện Shuang Ho, Đại học Y khoa Đài Bắc cho rằng RLĐG Na+ không có mối liên quan đến tình trạng tăng huyết áp [8].

Nhóm bệnh nhân mắc bệnh đái tháo đường có tỷ lệ RLĐG natri gấp 1,71 lần nhóm bệnh nhân không mắc bệnh đái tháo đường. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê vì p < 0,05. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự cũng tìm thấy ở nghiên cứu của Kurniawan Adi Lukas và cộng sự tại Khoa Thận tại Bệnh viện Shuang Ho, Đại học Y Đài Bắc, RLĐG Na+ có mối liên quan đến bệnh nhân mắc bệnh đái tháo đường, do những thay đổi trong phân bố điện giải có thể do sự dịch chuyển thẩm thấu bởi tăng đường huyết hoặc mất chất điện giải do lợi tiểu thẩm thấu [8]

Nghiên cứu của chúng tôi chưa ghi nhận mối liên quan giữa các yếu tố giai đoạn BTM, thời gian mắc bệnh và lọc máu với tình trạng RLĐG Na+. Kết quả của chúng tôi có sự tương đồng với một số tác giả: theo nghiên cứu của Trần Thị Kiều Phương hạ natri máu có thể gặp ở tất cả người bệnh thận mạn tính và không liên quan đến các giai đoạn suy thận [15]. Nghiên cứu của Đặng Thị Việt Hà và cộng sự cũng cho thấy hạ natri máu không liên quan đến giai đoạn của BTM [2].

Một số yếu tố liên quan đến tình trạng rối loạn K+ ở bệnh nhân bệnh thận mạn

Kết quả nghiên cứu ghi nhận tình trạng RLĐG K+ xảy ra chiếm ưu thế ở bệnh nhân mắc tăng huyết áp có tỷ lệ RLĐG K+ gấp 1,13 lần nhóm bệnh nhân không mắc tăng huyết áp. Tuy nhiên, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê vì p > 0,05. Kết quả này tương tự nghiên cứu của Phạm Vĩnh Phú và cộng sự cũng cho rằng nhóm bệnh nhân tăng huyết áp không có mối quan đến tình trạng tăng kali máu ở bệnh nhân BTM (p = 0,080) [14]. Nhiều tác giả cho rằng nguy cơ phát triển tăng kali máu cũng đã được tìm thấy những bệnh nhân tăng huyết áp đang điều trị [7]. Sự khác biệt của nghiên cứu của tôi có lẽ do cỡ mẫu nhỏ, thời gian nghiên cứu ngắn.

Nhóm bệnh nhân BTM có RLĐG K+ xảy ra chiếm ưu thế ở bệnh nhân mắc đái tháo đường gấp 1,31 lần nhóm bệnh nhân không mắc bệnh đái tháo đường. Tuy nhiên, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê vì p > 0,05. Nghiên cứu của Phạm Vĩnh Phú và cộng sự tiến hành trên 855 bệnh nhân nội trú tại Bệnh viện Thống Nhất cho thấy tình trạng rối loạn tăng K+ máu có mối liên quan đến bệnh đái tháo đường [14]. Nghiên cứu của Lisa M. Einhorn và cộng sự, nghiên cứu cũng cho rằng rối loạn điện giải K+ có mối liên quan đến bệnh đái tháo đường [3]. Theo Tsering Dhondup và Qi Qian cho thấy tăng kali máu cũng có thể được gây ra trầm trọng hơn do sự dịch chuyển xuyên tế bào do thiếu insulin, nhiễm toan chuyển hoá do khoáng chất và phân huỷ mô, hấp thụ nhiều điện giải kali và khiếm khuyết do thuốc gây ra trong quá trình bài tiết điện giải kali qua thận. Vì thế bệnh nhân đái tháo đường mắc BTM cũng có nguy cơ bị tăng kali máu do giảm aldosteron, giảm renin máu [17]. Tương tự, nghiên cứu của Anago E và cộng sự tại Benin cho thấy tăng kali máu có liên quan đáng kể đến bệnh nhân đái tháo đường [1].

Nhóm bệnh nhân BTM RLĐG K+ xảy ra chiếm ưu thế ở rối loạn lipid máu gấp 1,22 lần nhóm bệnh nhân không mắc bệnh rối loạn lipid máu. Tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê vì p > 0,05.

Không có sự liên quan giữa có RLĐG K+ với các giai đoạn BTM, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Kết quả nghiên cứu chúng tôi có sự tương đồng với nghiên cứu của Đặng Thị Việt Hà cũng cho thấy tăng kali máu không liên quan đến giai đoạn của BTM [2].

Một số yếu tố liên quan đến tình trạng rối loạn Ca2+ ở bệnh nhân bệnh thận mạn

Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận nhóm bệnh nhân mắc bệnh rối loạn lipid máu có tỷ lệ RLĐG Ca2+ gấp 1,28 lần nhóm bệnh nhân không mắc bệnh rối loạn lipid máu Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự cũng tìm thấy ở nghiên cứu của Kurniawan, Adi Lukas và cộng sự rối loạn lipid máu có liên quan rối loạn điện giải tăng calci [8]. Nghiên cứu của Gallo L và cộng sự cũng tìm thấy mối liên hệ tích cực giữa calci huyết thanh với rối loạn lipid máu [4]. Ở những bệnh nhân bị BTM, sự chuyển hóa lipoprotein bất thường dẫn đến rối loạn lipid máu, bao gồm tăng triglycerid máu, tăng lượng lipoprotein giàu chất béo trung tính còn sót lại, giảm HDL - cholesterol và tăng lipoprotein. Cơ sở sinh lý bệnh của rối loạn lipid máu và BTM không chỉ là tình trạng xơ vữa động mạch trầm trọng hơn trong vi tuần hoàn thận mà còn là sự lắng đọng lipoprotein trong cấu trúc cầu thận, kích thích các cytokine và các yếu tố tăng trưởng liên quan đến tình trạng viêm và xơ hóa [16].

Nghiên cứu ghi nhận những trường hợp có rối loạn điện giải Ca2+ chiếm ưu thế ở bệnh nhân bệnh thận giai đoạn V (p = 0,028). Điều này có thể được giải thích là do ở những bệnh nhân bệnh thận mạn khi chức năng thận suy giảm sẽ giảm sản xuất enzyme 1-hydrolase, dẫn đến việc giảm hình thành 1,25-dihydrocholecalciferol (calcitriol), từ đó làm giảm hấp thu calci ở tế bào biểu mô ruột và ống thận. Khi chức năng thận càng giảm thì tình trạng hạ calci máu càng tăng [10].

Nghiên cứu không ghi nhận mối liên quan giữa rối loạn điện giải Ca2+ với thời gian mắc bệnh. Tuy nhiên kết quả ghi nhận nhóm bệnh nhân có lọc máu tỷ lệ RLĐG Ca2+ gấp 1,24 lần nhóm bệnh nhân không lọc máu (p = 0,029). Nguyên nhân là do nhóm bệnh nhân có lọc máu thường là nhóm bệnh nhân bệnh thận mạn ở giai đoạn IV và V, chức năng thận suy giảm khá nhiều ảnh hưởng đến việc hấp thu calci ở ruột và tái hấp thu calci ở ống thận.

Một số yếu tố liên quan đến tình trạng rối loạn Cl- ở bệnh nhân bệnh thận mạn

Nghiên cứu của chúng tôi hiện chưa ghi nhận được mối liên quan giữa RLĐG Cl- với tình trạng tăng huyết áp, béo phì, đái tháo đường, rối loạn lipid máu, bệnh lý tim mạch, gout và sỏi thận ở các đối tượng nghiên cứu (p > 0,05).

Kết quả nghiên cứu cũng ghi nhận không có sự liên quan giữa có RLĐG Cl- với các giai đoạn BTM (p > 0,05). Kết quả nghiên cứu chúng tôi có sự tương đồng với nghiên cứu của Đặng Thị Việt Hà cũng cho thấy giảm Cl- máu không liên quan đến giai đoạn của BTM [2].

Ngoài ra, kết quả ghi nhận không có sự liên quan giữa có RLĐG Cl- với thời gian mắc BTM và tình trạng lọc máu (p > 0,05).

  1. KẾT LUẬN

Kết quả nghiên cứu cho thấy, tình trạng rối loạn điện giải Na+, K+ ở bệnh nhân bệnh thận mạn có liên quan với tình trạng tăng huyết áp và đái tháo đường. Tỷ lệ rối loạn điện giải Ca2+ chiếm ưu thế ở bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn V. Tình trạng rối loạn điện giải Ca2+ ở những người bệnh thận mạn có lọc máu chiếm tỷ lệ cao hơn ở bệnh nhân không lọc máu.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Anogo E, Medehouenou T, Akpovi CD, et al (2016), “Electrolyte disturbances in diabetic patients in Cotonou, Benin”, Int J Res Med Sci. 2016; 4:5430-5.

[2] Đặng Thị Việt Hà, Đỗ Gia Tuyển (2016), “Khảo sát rối loạn điện giải ở bệnh nhân suy thận mạn tính”, Tạp chí Y học Việt Nam tháng 2, số 2, tr. 55.

[3] Einhorn L. M, Zhan Min, Hsu V. D, et al (2009), “The Frequency of Hyperkalemia and Its Significance in Chronic Kidney Disease”, Jama Network, vol. 169 no. 12, 2009

[4] Gallo L, Faniello MC, Canino G, et al (2016), “Serum calcium increase correlates with worsening of lipid profile” an observational study on a large cohort from South Italy. Medicine. 2016;95:e2774

[5] GBD Chronic Kidney Disease Collaboration (2020), “Global, regional, and national burden of chronic kidney disease, 1990 - 2017: A systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2017”, volume 395, issue 10225, pp 709 - 733.

[6] Johansen K. L, Chertow G. M, Kutner N. G, et al (2010). “Low level of self-reported physical activity in ambulatory patients new to dialysis”. Kidney international, volume 78, issue 11, pp 1164-1170, DOI: 10.1038/ki.2010.312.

[7] Kovesdy CP (2016), “Epidemiology of hyperkalemia”, Kidney Int Suppl. 2016; 6:3-6.

[8] Kurniawan A.L, Yang, YL., Hsu, CY. et al (2021). “Association between metabolic parameters and risks of anemia and electrolyte disturbances among stages 3-5 chronic kidney disease patients in Taiwan”, BMC Nephrol 22, 385, DOI: 10.1186/s12882-021-02590-w.

Link: https://doi.org/10.1016/S0140-6736(20)30045-3

[9] Lozano R, Naghavi M, Foreman K et al (2022), “Global and regional mortality from 235 causes of death for 20 age groups in 1990 and 2010: A systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2010”, Articles volume 380, issue 9859. https://doi.org/10.1176/appi.psy.51.6.528

[10] Mai Phương Thảo, Lê Quốc Tuấn (2023), “Sinh lý hệ thận niệu”, Sinh lý học y khoa, NXB Y Học TP.HCM, trang 186-253.

[11] Nathan R. Hill, Samuel T. Fatoba, Jason L. Oke, et al (2016), “Global prevalence of chronic kidney disease a systematic review and meta-analysis,” PLoS One,. DOI: 10.1371/journal.pone.0158765.

[12] Nguyễn Hữu Sơn (2009), “Nghiên cứu thực trạng rối loạn điện giải ở bệnh nhân mắc bệnh thận mạn tính tại Bệnh viện Đa khoa Bắc Giang”, Luận văn Thạc sỹ Y học, Đại học Thái Nguyên Trường Đại học Y - Dược.

[13] Nguyễn Trường Sơn (2018). “Phác đồ điều trị 2018 - Phần nội khoa - Tập 1”, Nhà xuất bản Y học, Hồ Chí Minh, tr 415 – 419

[14] Phạm Vĩnh Phú, Lê Văn Lắm, Nguyễn Phan Thuỷ Tiên và cộng sự (2019), “Ảnh hưởng của chức năng thận lên tăng kali máu của bệnh nhân nội trú tại Bệnh viện Thống Nhất”, Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh - tập 23, số 3.

[15] Trần Thi Kiều Phương (2006), “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng nguyên nhân và yếu tố thuận lợi gây hạ natri máu ở người bệnh mắc bệnh thận mạn tính tại khoa Thận - Tiết niệu Bệnh viện Bạch Mai”, Luận văn tốt nghiệp Bác sĩ Nội trú, Đại học Y Hà Nội.

[16] Trần Văn Chất (2008), “Bệnh thận”, Nhà xuất bản Y học Hà Nội, tr. 48 – 58

[17] Tsering Dhondup, Qi Qian (2017), “Electrolyte and Acid–Base Disorders in Chronic Kidney Disease and End-Stage Kidney Failure”, Division of Nephrology and Hypertension, Department of Medicine, Mayo Clinic, College of Medicine, Rochester, MN, USA.

Tác giả:

Thạc sĩ – Bác sĩ TRẦN HẢI HÀ

Bác sĩ chuyên khoa I TRƯƠNG THỊ BÍCH PHƯƠNG

Cử nhân xét nghiệm: LÝ HỒ MINH THƯ

Đơn vị công tác: Trường Đại Học Trà Vinh

Cùng chuyên mục

Chữa bong gân bằng cây lá náng

Chữa bong gân bằng cây lá náng

Cây lá náng (lá náng hoa trắng) là một loại cây mọc hoang quen thuộc trong đời sống hoặc có khi được trồng làm cảnh. Điểm đáng chú ý ở loại cây này là được tận dụng làm thuốc chữa bệnh xương khớp và nhiều chứng bệnh khác rất hiệu quả.
Những loại cây chữa đau nhức xương khớp

Những loại cây chữa đau nhức xương khớp

Một số loại cây thuốc nam chữa đau nhức xương khớp như: Cây xấu hổ, cây dây đau xương, cây ngải cứu....
Việt Nam - Ấn Độ và cơ hội định hình chuỗi giá trị y học cổ truyền toàn cầu

Việt Nam - Ấn Độ và cơ hội định hình chuỗi giá trị y học cổ truyền toàn cầu

Việt Nam và Ấn Độ đang đứng trước cơ hội tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị y học cổ truyền toàn cầu. Hai quốc gia đã sẵn sàng nâng tầm quan hệ đối tác song phương đang phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực y học cổ truyền.
Cải cúc - Loại rau bình dị, vị thuốc trong vườn nhà

Cải cúc - Loại rau bình dị, vị thuốc trong vườn nhà

Rau cải cúc (còn gọi là tần ô) từ lâu đã là nguyên liệu quen thuộc trong bữa ăn của nhiều gia đình Việt. Không chỉ có hương thơm dịu, vị ngọt mát đặc trưng, cải cúc còn được y học cổ truyền đánh giá là một loại rau có dược tính, giúp hỗ trợ điều trị nhiều chứng bệnh thường gặp.
Vườn thuốc nam tại gia: 7 loại cây dễ trồng và công dụng chữa bệnh thông thường

Vườn thuốc nam tại gia: 7 loại cây dễ trồng và công dụng chữa bệnh thông thường

Việc tự tay tạo một "tủ thuốc" xanh ngay tại nhà không chỉ là một thú vui tao nhã mà còn là giải pháp thông minh, cung cấp nguồn dược liệu tươi sạch, hiệu quả để xử lý nhanh chóng các vấn đề sức khỏe thường gặp. Dưới đây là 7 loại cây thuốc nam quen thuộc, dễ trồng và có giá trị cao mà gia đình bạn nên sở hữu.
Bài thuốc dân gian từ cốt khí củ

Bài thuốc dân gian từ cốt khí củ

Cây cốt khí hay còn gọi là hổ trượng căn, điền thất, hoạt huyết đan, ban trượng căn…có vị đắng, tính ấm. Cây cốt khí thường mọc hoang ở các vùng đồi núi nước ta, rễ củ của loại cây này có khả năng kháng khuẩn, kháng virus, chống u xơ, chống huyết khối. Thường được dùng để chữa phong thấp, chấn thương, huyết áp, viêm gan, điều hoà kinh nguyệt,… Dưới đây là những bài thuốc dân gian từ cốt khí củ để bà con tham khảo.

Các tin khác

Lá lốt - Vị thuốc dân gian giúp giảm đau xương khớp hiệu quả

Lá lốt - Vị thuốc dân gian giúp giảm đau xương khớp hiệu quả

Lá lốt là loại thảo dược gần gũi, dễ sử dụng và mang lại nhiều lợi ích cho hệ xương khớp nhờ khả năng chống viêm, giảm đau, tán hàn và hoạt huyết. Khi được dùng đúng cách, lá lốt có thể trở thành giải pháp tự nhiên giúp nhiều người giảm bớt đau nhức và cải thiện chất lượng cuộc sống, đặc biệt trong những ngày thời tiết lạnh ẩm.
Hội đông Y Việt Nam: Lương y Hoàng Nguyên Cát và những bài thuốc quý của Thái Y viện triều Nguyễn

Hội đông Y Việt Nam: Lương y Hoàng Nguyên Cát và những bài thuốc quý của Thái Y viện triều Nguyễn

SKV - Ngày 11-12 tại Hà Nội, Hội Đông y Việt Nam tổ chức Hội nghị khoa học toàn quốc “Về thân thế, sự nghiệp của Lương y Hoàng Nguyên Cát và những bài thuốc quý, hiệu quả cao chăm sóc sức khỏe Vua Minh Mạng của Thái Y viện triều Nguyễn”.
Kỳ 3: Công dụng và các bài thuốc từ cây cúc tần

Kỳ 3: Công dụng và các bài thuốc từ cây cúc tần

Trong y học cổ truyền, cúc tần được xem là một trong những vị thuốc có giá trị bởi đặc tính mát, vị đắng nhẹ, quy kinh vào phế và thận. Với khả năng thanh nhiệt, tiêu viêm, lợi tiểu, hoạt huyết và giảm đau, loài cây này xuất hiện trong nhiều bài thuốc dân gian dùng để chữa cảm sốt, đau nhức xương khớp, viêm phế quản hay các chứng bệnh do phong hàn gây nên. Y học hiện đại cũng đã có những nghiên cứu bước đầu chứng minh một số tác dụng sinh học của tinh dầu cúc tần, củng cố thêm giá trị của loài cây này trong điều trị hỗ trợ.
Bạn có biết: Lợi ích sức khỏe và bài thuốc từ quả trám

Bạn có biết: Lợi ích sức khỏe và bài thuốc từ quả trám

Trám là một loại quả nhỏ nhưng giàu giá trị dinh dưỡng và công dụng y học cổ truyền. Từ lâu, trám đã được dùng trong ẩm thực và làm thuốc, mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe.
Kỳ 2 – Thành phần hóa học và cách thức khai thác dược liệu cây cúc tần

Kỳ 2 – Thành phần hóa học và cách thức khai thác dược liệu cây cúc tần

Cúc tần không chỉ là loài cây quen thuộc trong đời sống dân gian mà còn là một trong những dược liệu được sử dụng phổ biến trong Đông y nhờ thành phần hoạt chất phong phú. Chính sự đa dạng này đã tạo nên giá trị y học của cúc tần và khiến loài cây này trở thành nguồn dược liệu dễ khai thác, đáp ứng nhiều mục đích chăm sóc sức khỏe.
Kỳ 1: Đặc điểm sinh học của cây cúc tần

Kỳ 1: Đặc điểm sinh học của cây cúc tần

Cây cúc tần, còn được gọi bằng nhiều tên khác nhau như đại ngải, băng phiến ngải, đại bi, từ bi hay lức ấn, là một loài cây thuộc họ Cúc (Asteraceae). Từ lâu, cúc tần đã quen thuộc với người dân ở nhiều vùng quê Việt Nam nhờ đặc tính dễ trồng, mọc khỏe và có mùi thơm dịu từ tinh dầu. Xét về nguồn gốc, loài cây này được cho là xuất phát từ khu vực Malaysia và Ấn Độ, sau đó lan rộng sang nhiều quốc gia châu Á, trong đó có Việt Nam.
10 loại thảo dược giúp an thần, giảm căng thẳng theo y học cổ truyền

10 loại thảo dược giúp an thần, giảm căng thẳng theo y học cổ truyền

Trong cuộc sống hiện đại, áp lực công việc và nhịp sống nhanh khiến nhiều người rơi vào trạng thái căng thẳng, lo âu kéo dài. Y học cổ truyền Việt Nam vốn có kho tàng phong phú các vị thuốc Nam có tác dụng an thần, dưỡng tâm, giúp cân bằng tinh thần. Dưới đây là một số dược liệu thường dùng, cùng phân tích và cách áp dụng trong đời sống.
Rau củ mùa đông: Những “vị thuốc” quen thuộc giúp bồi bổ và tăng cường sức khỏe

Rau củ mùa đông: Những “vị thuốc” quen thuộc giúp bồi bổ và tăng cường sức khỏe

Mùa đông là thời điểm cơ thể dễ suy giảm sức đề kháng, khô da, nhiễm lạnh và rối loạn tiêu hóa. Tuy nhiên, thiên nhiên cũng ưu ái ban tặng nhiều loại rau củ đặc trưng cho mùa này, vừa giàu dinh dưỡng theo y học hiện đại, vừa có giá trị như “vị thuốc” theo y học cổ truyền. Dưới đây là những loại rau củ phổ biến trong mùa đông và lợi ích sức khỏe nổi bật.
Bài 3: Những lưu ý khi dùng dây gắm chữa bệnh

Bài 3: Những lưu ý khi dùng dây gắm chữa bệnh

Dây gắm là một trong những dược liệu quen thuộc trong y học cổ truyền, thường được sử dụng để hỗ trợ điều trị các bệnh về xương khớp, phong tê thấp, đau nhức mạn tính… Nhờ đặc tính thanh nhiệt, giải độc, tiêu viêm, dây gắm được nhiều người tin dùng như một giải pháp tự nhiên, lành tính. Tuy nhiên, để đạt hiệu quả điều trị tốt và đảm bảo an toàn cho sức khỏe, người bệnh cần nắm rõ những lưu ý quan trọng khi sử dụng loại thảo dược này.
Bài 2: Một số bài thuốc Đông y từ cây gắm phổ biến

Bài 2: Một số bài thuốc Đông y từ cây gắm phổ biến

Từ những thông tin trên, chúng ta có thể thấy được cây gắm đối với sức khỏe của chúng ta là vô cùng có lợi. Dưới đây là một vài bài thuốc phổ biến từ cây gắm cho một vài loại bệnh lý điển hình, tuy nhiên, các bài thuốc chỉ mang tính chất tham khảo, việc sử dụng cần có chỉ định của bác sĩ.
Xem thêm
Hội Nam Y Việt Nam và hành trình lan tỏa yêu thương đến 280 hộ đồng bào Rục ở Kim Phú (Quảng Trị)

Hội Nam Y Việt Nam và hành trình lan tỏa yêu thương đến 280 hộ đồng bào Rục ở Kim Phú (Quảng Trị)

Trong hai ngày 12 và 13/12/2025, Hội Nam Y Việt Nam đã thực hiện một hành trình thiện nguyện đặc biệt, mang theo khoảng 20 tấn hàng hóa với tổng trị giá hơn 500 triệu đồng đến với đồng bào Rục tại xã Kim Phú, tỉnh Quảng Trị.
Diễn đàn quốc tế Lạc Bệnh Học lần thứ 21: Hội Nam Y Việt Nam làm cầu nối đưa Lạc Bệnh Học vươn tầm thế giới

Diễn đàn quốc tế Lạc Bệnh Học lần thứ 21: Hội Nam Y Việt Nam làm cầu nối đưa Lạc Bệnh Học vươn tầm thế giới

TTND. GS. TS. Trương Việt Bình khẳng định, Hội Nam Y Việt Nam sẽ tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế, đặc biệt với các cơ sở nghiên cứu hàng đầu của Trung Quốc và nhiều quốc gia khác, nhằm đưa Lạc bệnh học cũng như y học cổ truyền Việt Nam lên tầm cao mới.
Hội thảo khoa học “Sức khỏe não bộ: Phòng ngừa suy giảm và tăng cường trí nhớ” - Cùng hành động và chăm sóc sức khỏe cộng đồng

Hội thảo khoa học “Sức khỏe não bộ: Phòng ngừa suy giảm và tăng cường trí nhớ” - Cùng hành động và chăm sóc sức khỏe cộng đồng

Ngày 9/11, tại Khu Du lịch Ao Vua (Hà Nội), hơn 200 đại biểu, chuyên gia, bác sĩ đầu ngành trong lĩnh vực y học hiện đại và y học cổ truyền đã tham dự Hội thảo khoa học “Sức khỏe não bộ: Phòng ngừa suy giảm và tăng cường trí nhớ”.
Chi hội Nam y Trà Vinh tổ chức thành công đại hội đại biểu lần thứ II, nhiệm kỳ 2025-2030

Chi hội Nam y Trà Vinh tổ chức thành công đại hội đại biểu lần thứ II, nhiệm kỳ 2025-2030

SKV - Vĩnh Long, ngày 3/11/2025 – Trong không khí hân hoan và trang trọng, Chi Hội Nam Y Trà Vinh trực thuộc Hội Nam Y Việt Nam đã long trọng tổ chức Đại hội Đại biểu lần thứ II, nhiệm kỳ 2025 – 2030, đánh dấu bước phát triển mới sau 5 năm hoạt động tích cực, hiệu quả trong công tác khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền và chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Chi hội Nam y tỉnh An Giang lan tỏa yêu thương – trao gửi niềm tin tới người dân khó khăn khóm Long Thạnh

Chi hội Nam y tỉnh An Giang lan tỏa yêu thương – trao gửi niềm tin tới người dân khó khăn khóm Long Thạnh

Thực hiện kế hoạch công tác thường niên quý III năm 2025, Chi Hội Nam y tỉnh An Giang đã tổ chức chương trình thiện nguyện ý nghĩa tại khóm Long Thạnh, phường Long Phú, tỉnh An Giang.
Phiên bản di động