VIÊM GAN DO SỬ DỤNG THUỐC KHÁNG LAO

Bệnh Lao do các chủng mycobacterium tuberculosis gây ra được điều trị hiệu quả bằng các thuốc chống lao hàng đầu. Tuy nhiên, hầu hết các loại thuốc kháng lao được biết là gây độc cho gan, điều này có thể hạn chế sự tuân thủ điều trị và do đó dẫn đến sự tiến triển của kháng thuốc do vi khuẩn mycobacteria. Tỷ lệ viêm gan do thuốc kháng lao cao. Bệnh nhân nên được theo dõi bằng cách đo men gan thường xuyên để đánh giá sự phát triển của viêm gan do thuốc kháng lao. Do đó, chức năng gan của bệnh nhân lớn tuổi, có bệnh đồng mắc và lao ngoài phổi nên được theo dõi thường xuyên để giảm mức độ nghiêm trọng của nhiễm độc gan do thuốc.

Tuberculosis caused by susceptible mycobacterium tuberculosis strains is effectively treated by the first-line anti-tuberculosis drugs. However, most antibacterial drugs are known to induce hepatotoxicity which may limit their adherence and hence lead to the development of mycobacterial drug resistance. The incidence of anti-tuberculosis drug-induced hepatitis was high. The patients should be followed with frequent measurement of liver enzymes to assessfor the development of drug-induced hepatitis. Therefore, the liver function of patients with old age, comorbid diseases, and extrapulmonary tuberculosis should be regularly monitored to reduce the severity of drug-induced hepatotoxicity.

  1. GIỚI THIỆU

Bệnh lao là một bệnh nhiễm khuẩn mạn tính do trực khuẩn Mycobacterium tuberculosis gây nên. Bệnh lây lan chủ yếu qua đường hô hấp do hít phải chất tiết có chứa vi khuẩn lao. Lao phổi là thể bệnh lao thường gặp nhất, chiếm khoảng 70% tổng số trường hợp bệnh nhân lao. Ngoài ra M. Tuberculosis còn theo đường máu và bạch huyết đến các cơ quan khác gây lao màng não, lao tiết niệu – sinh dục, lao xương khớp, lao hạch... Nếu không được chẩn đoán và điều trị sớm có thể để lại di chứng nặng nề cho người bệnh [1, 2, 16].

Điều trị bệnh lao mất nhiều thời gian do liệu trình sử dụng thuốc chống lao kéo dài 6 tháng trong đó isoniazid, rifampicin, pyrazinamide và ethambutol được dùng trong 2 tháng đầu ở giai đoạn tấn công, sau đó là 4 tháng sử dụng isoniazid, rifampicin và ethambutol ở giai đoạn duy trì. Việc tuân thủ tốt phác đồ là rất quan trọng để điều trị bệnh lao. Các tác dụng phụ thường ảnh hưởng bất lợi đến việc tuân thủ điều trị, dẫn đến bệnh nhân bỏ điều trị hoặc phải thay đổi phác đồ điều trị, điều này có thể dẫn đến điều trị không thành công. Một trong những tác dụng phụ ảnh hưởng đến kết quả điều trị lao là nhiễm độc gan do thuốc kháng lao [1, 22]

Tỷ lệ bệnh nhân bị viêm gan do thuốc kháng lao chiếm khoảng 2,55% - 36,75% theo số liệu báo cáo từ nhiều nghiên cứu khác nhau được thực hiện ở các quốc gia trên thế giới [19]. Nhiễm độc gan do thuốc kháng lao gây ra có liên quan đến tỷ lệ tử vong là 6%–12% và đôi khi tỷ lệ này có thể lên tới 22,7% [6]. Sự xuất hiện của nhiễm độc gan do thuốc là không thể đoán trước, nhưng người ta nhận thấy rằng một số bệnh nhân có nguy cơ tương đối cao hơn so với các đối tượng khác như: người cao tuổi, giới nữ, nghiện rượu, viêm gan siêu vi B...[17]. Lao ngoài phổi, bệnh đồng mắc và tuổi già có liên quan đáng kể với các thuốc chống lao hàng đầu gây độc cho gan [22]. Bệnh nhân có albumin huyết thanh ban đầu thấp, đang dùng các thuốc gây độc cho gan khác và có bệnh gan từ trước nên được theo dõi men gan nhiều lần sau khi bắt đầu dùng thuốc chống lao. Những bệnh nhân này nên được theo dõi bằng cách xét nghiệm men gan thường xuyên để đánh giá sự phát triển của viêm gan do thuốc. [10]

Tình trạng viêm gan trong điều trị lao là vấn đề quan trọng cần được quan tâm. Bởi vì nó ảnh hưởng đến việc tuân thủ điều trị của bệnh nhân, hiệu quả và thời gian điều trị. Trong bài viết này, chúng tôi tập trung tìm hiểu một số vấn đề về viêm gan do sử dụng thuốc kháng lao trong thực hành lâm sàng

  1. NỘI DUNG

Trong 5 loại thuốc chống lao hàng đầu streptomycin (S), rifampicin (R), isoniazid (H), pyrazinamid (Z), ethambutol (E) thường được sử dụng thì có 3 loại thuốc là isoniazid, rifampicin và pyrazinamide được biết là gây nhiễm độc gan [14]. Việc sử dụng đồng thời nhiều loại thuốc trong thời gian dài để điều trị bệnh lao càng làm phức tạp thêm vấn đề độc tính do thuốc kháng lao gây ra. [1,2,3]

Isoniazid là loại thuốc phổ biến nhất có liên quan đến độc tính. Bốn nghiên cứu quan sát dựa trên dân số lớn đã chỉ ra rằng tỷ lệ nhiễm độc gan do isoniazid khi được sử dụng đơn trị liệu (trong điều trị lao tiềm ẩn) nằm trong khoảng 0,1%–0,56% [20]. Một đánh giá dựa trên dữ liệu từ Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) ước tính rằng 23,2 trên 100.000 người chết khi điều trị dự phòng bằng isoniazid [8]. Trong một phân tích tổng hợp, isoniazid có nhiều khả năng liên quan đến nhiễm độc gan hơn (OR = 1,6) ngay cả khi không có rifampicin, nhưng sự kết hợp của hai loại thuốc này có liên quan đến tỷ lệ nhiễm độc gan cao hơn (OR = 2,6) khi so với từng loại thuốc riêng lẻ. Việc dùng thuốc hàng ngày chưa được chứng minh có nguy cơ nhiễm độc gan cao hơn việc dùng thuốc ba lần một tuần [11].

Cơ chế bệnh sinh gây tổn thương gan của thuốc kháng lao:

Isoniazid

Isoniazid được chuyển hóa và đào thải chủ yếu ở gan. Các enzym chủ chốt trong quá trình chuyển hóa, N -acetyltransferase 2 (NAT2) và enzym cytochrom P4502E1 (CYP2E1) của microsome xác định nguy cơ nhiễm độc gan. NAT2 chịu trách nhiệm chuyển hóa isoniazid thành acetyl isoniazid, sau đó được thủy phân thành acetyl hydrazine. Sau này có thể bị oxy hóa bởi CYP2E1 để tạo thành N-hydroxy-acetyl hydrazine, tiếp tục khử nước để tạo ra acetyl diazine. Bản thân acetyl diazine có thể là chất chuyển hóa độc hại hoặc có thể phân hủy thành ion acetyl onium phản ứng, gốc acetyl và ketene, có thể liên kết cộng hóa trị với các đại phân tử gan dẫn đến tổn thương gan. Enzyme NAT2 cũng chịu trách nhiệm tiếp tục acetyl hóa acetyl hydrazine thành diacetyl hydrazine không độc hại. Do đó, quá trình acetyl hóa chậm không chỉ dẫn đến sự tích lũy hợp chất gốc mà còn cả mono-acetyl hydrazine. Quá trình acetyl hóa acetyl hydrazine tiếp tục bị ức chế bởi chính isoniazid. Ngoài ra, quá trình thủy phân trực tiếp isoniazid mà không acetyl hóa tạo ra hydrazine có thể gây tổn thương gan [5, 21]

Cơ chế gây viêm gan của Isoniazid [21]

Rifampicin

Rifampicin là một chất cảm ứng mạnh của một số con đường enzym chuyển hóa trong hệ thống cytochrom P450 (CYP3A4) cụ thể thông qua PXR của tế bào gan. Sự kích hoạt CYP3A4 này dẫn đến tăng chuyển hóa isoniazid tạo ra các chất chuyển hóa độc hại, do đó giải thích tác dụng tăng cường của rifampicin trong nhiễm độc gan do thuốc chống lao gây ra. Rifampicin cũng gây ra các hydrolase isoniazid, dẫn đến tăng sản xuất hydrazine, đặc biệt là trong các chất acetyl hóa chậm, do đó làm tăng độc tính khi dùng kết hợp với isoniazid [5, 21].

Pyrazinamid

Pyrazinamid là một dẫn xuất của axit nicotinic. Pyrazinamid được chuyển hóa chủ yếu ở gan, được thủy phân thành axit pyrazinoic. Sau đó tiếp tục bị oxy hóa bởi xanthine oxidase thành axit 5-hydroxy pyrazinoic. Các chất chuyển hóa được thải trừ qua thận. Thời gian bán hủy của pyrazinamide dài hơn isoniazid và rifampicin; nó còn kéo dài hơn nữa khi có bệnh gan tiềm ẩn và khi được sử dụng với các loại thuốc khác ức chế xanthine oxidase như allopurinol [5, 21].

Tỷ lệ viêm gan do thuốc kháng lao:

Trong nghiên cứu của Yalew Molla, Muluken Wubetu và cộng sự (2020) tại Đại học Debre Markos, Debre Markos, Ethiopia ghi nhận tỷ lệ viêm gan ở bệnh nhân sử dụng thuốc kháng lao là 7,9% [22]; tương đương với một nghiên cứu được thực hiện ở Malaysia (9,7%) [14]. Tuy nhiên, kết quả của nghiên cứu này cao hơn một chút so với báo cáo ở Iran (5,5%) [15]. Ngoài ra, khả năng gây viêm gan do kháng lao của nghiên cứu này thấp hơn so với các nghiên cứu được thực hiện ở Pakistan (13%), Tây Ban Nha (12%) Florida (16,4%) và Ma-rốc (24,6%) [7].

Theo nghiên cứu của Liwam Kidane Gezahegn và cộng sự năm 2020 tại Bệnh viện Đại học Bắc Ethiopia ghi nhận tỷ lệ viêm gan do thuốc kháng lao là 13,8% [10]. Nhiều nghiên cứu được thực hiện ở các quốc gia khác nhau đã báo cáo rằng có khoảng một phần tư (2,55% - 36,75%) bệnh nhân dùng thuốc chống lao bị viêm gan do thuốc trong quá trình điều trị lao. Nhiễm độc gan do thuốc chống lao gây ra có liên quan đến tỷ lệ tử vong là 6%–12% nếu các thuốc này được tiếp tục sau khi xuất hiện các triệu chứng, và đôi khi tỷ lệ này có thể lên tới 22,7% [6, 10 ].

Theo tổng hợp số liệu của Alma Tostmann và cộng sự tỷ lệ nhiễm độc gan do thuốc kháng lao được báo cáo, phản ứng bất lợi nghiêm trọng nhất và có khả năng gây tử vong, dao động trong khoảng từ 2% đến 28% [5].

Triệu chứng lâm sàng

Biểu hiện của nhiễm độc gan do thuốc kháng lao bao gồm: Triệu chứng cơ năng: đau hạ sườn phải; vàng da, vàng mắt; ngoài ra bệnh nhân có cảm giác mệt mỏi kèm theo chán ăn; buồn nôn, nôn ói. Triệu chứng thực thể: gan to. Cận lâm sàng: tăng men gan. [1, 10, 17]

Theo nghiên cứu của Liwam Kidane Gezahegn và cộng sự năm 2020 tại Bệnh viện Đại học Bắc Ethiopia ghi nhận Các đặc điểm lâm sàng phổ biến nhất là buồn nôn và nôn (96,2%), sau đó là mệt mỏi và vàng da, tương ứng là 80,8% và 65,4%. Có 88% bệnh nhân cải thiện sau khi ngừng thuốc chống lao [10].

Nhiễm độc gan thường được chẩn đoán bằng tình trạng tăng nồng độ các men gan AST, ALT và/hoặc tăng bilirubin toàn phần có hoặc không kèm theo biểu hiện vàng da [1, 17]

Bảng phân độ viêm gan do thuốc kháng lao [1, 5]

Thông số

Tăng ALT

Tăng AST

Tăng Bilirubin toàn phần

Mức độ 1

1,25 đến < 2,5 x ULN

1,25 đến < 2,5 x ULN

1,1 đến < 1,6 x ULN

Mức độ 2

2,5 đến < 5 x ULN

2,5 đến < 5 x ULN

1,6 đến < 2,6 x ULN

Mức độ 3

5 đến < 10 x ULN

5 đến < 10 x ULN

2,6 đến < 5 x ULN

Mức độ 4

≥ 10 x ULN

≥ 10 x ULN

≥ 5 x ULN

*Ghi chú: Upper Limit of Normal (ULN): giới hạn trên bình thường.

Thời gian tăng men gan:

Theo nghiên cứu của Yalew Molla và cộng sự (2020) ghi nhận. Các thuốc chống lao gây viêm gan xảy ra trong khoảng thời gian từ 8–56 ngày kể từ khi bắt đầu điều trị ở giai đoạn tấn công. Tương tự như kết quả của nghiên cứu này, thời gian bắt đầu biểu hiện viêm gan do thuốc được tiến hành ở vùng Dawro, Ethiopia nằm trong khoảng từ 13–58 ngày kể từ khi bắt đầu điều trị [22]. Tuy nhiên, theo nghiên cứu được thực hiện ở Ma-rốc, thời điểm bắt đầu có biểu hiện viêm gan do thuốc chống lao gây ra được báo cáo là 10–25 ngày [7]. Nhìn chung, mặc dù thời gian khởi phát viêm gan giữa các nghiên cứu là khác nhau, nhưng các bệnh nhân đã có tiến triển viêm gan trong giai đoạn điều trị tấn công khi cơ chế thích ứng của gan không được kích hoạt để chống lại thuốc điều trị lao [22]. Theo nghiên cứu của Makhlouf HA, Helmy A và cộng sự (2008) được thực hiện ở Ai Cập chức năng gan của bệnh nhân bị viêm gan trở về bình thường sau 2 tuần ngưng điều trị [17,22].

Theo nghiên cứu của Liwam Kidane Gezahegn và cộng sự (2020) thời gian tiến triển trung bình của viêm gan do thuốc là 12 ngày, dao động từ 5–52 ngày [10]. Các nghiên cứu khác được thực hiện ở Pakistan, Ai Cập và vùng Dawro (Ethiopia) cũng cho kết quả tương tự [4, 13]. Thời gian trung bình để men gan trở lại bình thường là 14 ngày, dao động từ 7-32 ngày. Trong số những bệnh nhân này, năm bệnh nhân bị tái phát viêm gan do thuốc sau khi dùng lại thuốc chống lao [10]

Các yếu tố liên quan đến tình trạng viêm gan do thuốc kháng lao:

Trong nghiên cứu của Yalew Molla, Muluken Wubetu và cộng sự (2020) tại Đại học Debre Markos, Debre Markos, Ethiopia ghi nhận những trường hợp bệnh nhân có thêm bệnh lao ngoài phổi, tuổi già và bệnh đồng mắc đi kèm được coi là những yếu tố nguy cơ quan trọng trong việc tiến triển tình trạng nhiễm độc gan do thuốc kháng lao [22].

Khả năng tiến triển viêm gan đối với thuốc kháng lao thấp hơn 0,85 lần ở những bệnh nhân từ 18–49 tuổi so với những người từ 65 tuổi trở lên. Kết quả này tương tự với một số nghiên cứu khác được thực hiện ở Iran; Canada và Tây Ban Nha. Tỷ lệ viêm gan do thuốc kháng lao cao hơn ở người lớn tuổi có thể là do sự phối hợp của các bệnh đồng mắc và việc sử dụng các loại thuốc hỗ trợ để điều trị các bệnh đồng mắc này ở nhóm bệnh nhân lớn tuổi [6, 15, 22]

Bệnh nhân lao phổi có nguy cơ tiến triển viêm gan do thuốc kháng lao thấp hơn 0,26 lần so với những người mắc bệnh lao ngoài phổi. Lao ngoài phổi được ghi nhận là có liên quan đến tỷ lệ viêm gan do thuốc kháng lao cao hơn trong các nghiên cứu được thực hiện ở Nepal và Ấn Độ [18, 22].

Bệnh nhân mắc bệnh nội khoa kèm theo có nguy cơ bị viêm gan cao gấp 12,9 lần so với bệnh nhân mắc lao đơn thuần. Phát hiện này được chứng minh bởi nhiều nghiên cứu khác nhau. Điều này có thể là do việc sử dụng đồng thời các thuốc điều trị bệnh đi kèm làm giảm chuyển hóa và bài tiết thuốc gây độc cho gan [12, 22]

Tiêu thụ rượu là một yếu tố nguy cơ của viêm gan do thuốc kháng lao, đã được trình bày trong các nghiên cứu được thực hiện tại vùng Dawro [4]; Iran [15]; và Nepal [18].

Bệnh nhân bị bệnh gan mạn tính trước đó, dùng các loại thuốc gây độc cho gan khác và lượng albumin huyết thanh thấp hơn được coi là những yếu tố dự đoán độc lập về việc tiến triển bệnh viêm gan do thuốc. Theo nghiên cứu của Liwam Kidane Gezahegn và cộng sự (2020) ghi nhận albumin huyết thanh thấp hơn có liên quan đáng kể đến sự tiến triển của bệnh viêm gan do thuốc [10]. Điều này phù hợp với các nghiên cứu được thực hiện ở Ấn Độ, Ai Cập và Malaysia [9, 10, 13].

Xử trí tăng men gan [1, 5]

Mức độ tăng men gan

Hướng xử trí

Men gan < 2,5 x ULN

Tiếp tục phác đồ điều trị.

2,5 ULN < Men gan < 5 ULN + KHÔNG Triệu chứng lâm sàng

-Tiếp tục phác đồ điều trị.

-Xét nghiệm men gan mỗi tuần.

2,5 ULN< Men gan< 5 ULN +

  • Triệu chứng lâm sàng hoặc

Men gan ≥ 5 x ULN

-Ngưng toàn bộ thuốc kháng lao hoặc sử dụng S,E,Levofloxacin.

-Xét nghiệm men gan mỗi tuần hoặc 2 lần/tuần.

-Khi men gan < 2,5 x ULN à có thể điều trị lại thuốc kháng lao

Men gan > 10 ULN

-Tạm ngừng sử dụng toàn bộ thuốc lao.

-Nhập viện, điều trị tích cực, hội chẩn chuyên khoa tiêu hóa.

-Nếu bilirubin toàn phần > 250 µmol/l kết hợp triệu chứng lâm sàng nặng, cần điều trị hỗ trợ gan tích cực và xem xét sử dụng biện pháp thay huyết tương,

-Các yếu tố tiên lượng nặng:

+ Tăng bilirubin.

+ Rối loạn các yếu tố đông máu.

-Nếu mức độ viêm gan có khả năng đe dọa tính mạng, không phải do Viêm gan siêu vi hoặc Bệnh nhân mắc thể lao nặng mà việc ngừng tạm thời việc điều trị kháng lao là không an toàn à S,E, Levofloxacin

-Nếu việc điều trị kháng lao có thể tạm ngừng thì nên chờ cho các triệu chứng lâm sàng và xét nghiệm chức năng gan về bình thường à dùng lại các thuốc kháng lao.

-Khi men gan < 2 ULN à dùng lại thuốc kháng lao. Ở người bệnh có tiền sử bị bệnh gan, dùng lại thuốc khi men gan giảm về gần mức giới hạn bình thường.

Một số phác đồ thay thế khi xác định được tác nhân gây tổn thương gan : [1, 5]

+ Nếu viêm gan do Rifampicin (R): 2SHE /10 HE.

+ Nếu viêm gan do Isoniazid (H): 9RZE

+ Nếu viêm gan do Pyrazinamide (Z): 9RHE.

+ Nếu không thể sử dụng RHZ: 18 – 24 SEFQs (Fluoroquinolon)

+ Giảm còn 2 thuốc gây độc cho gan:

  • 9 tháng HRE
  • 2 tháng HRSE/6 tháng RH
  • 6-9 tháng với RZE

+ Chỉ sử dụng 1 thuốc độc với gan: 2 tháng HES/10 tháng HE

+ Không sử dụng thuốc độc với gan: 18-24 tháng SEFQs

  1. KẾT LUẬN

Viêm gan do thuốc kháng lao là một trong những biến cố bất lợi thường gặp nhất trong điều trị lao. Tỷ lệ viêm gan tương đối cao ở bệnh nhân có sử dụng thuốc RHZ trong phác đồ điều trị hàng đầu. Do đó cần phải theo dõi men gan thường xuyên để có những hướng xử trí phù hợp và sử dụng phác đồ thay thế trong một số trường hợp cần thiết.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

[1] Bộ Y Tế (2020), “Quyết định về việc ban hành Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị và dự phòng bệnh lao”, Số: 1314/QĐ-BYT, Hà Nội ngày 24 tháng 3 năm 2020.

[2] Nguyễn Thị Thu Ba (2015), Bệnh học lao, NXB Y học, tr. 36-43

Tiếng Anh

[3] Abbasi MA, Ahmed N, Suleman A, et al (2014), “Common risk factors for the development of anti tuberculosis treatment induced hepatotoxicity”. J Ayub Med Coll Abbottabad. 26:3.

[4] Abera W, Cheneke W, Abebe G (2016), “Incidence of anti-tuberculosis drug induced hepatotoxicity and associated risk factors among tuberculosis patients in Dawro Zone, South Ethiopia: A cohort study”. International journal of mycobacteriology; 5:14–20.

[5] Alma Tostmann, Martin J Boeree, Rob E Aarnoutse, Wiel C M De Lange, Andre J A M Van Der Ven, Richard Dekhuijzen (2008), “Antituberculosis drug-induced hepatotoxicity: Concise up-to-date review”. Journal of Gastroenterology and Hepatology, Volume 23, Issue 2, pp.165-340.

[6] Devarbhavi H, Singh R, Patil M, Sheth K, Adarsh CK, Balaraju G (2013), “Outcome and determinants of mortality in 269 patients with combination anti-tuberculosis drug-induced liver injury”, JGastroenterol Hepatol; 28: 161–7.

[7] El Bouazzi O, Hammi S, Bourkadi JE, et al (2016), “First line anti-tuberculosis induced hepatotoxicity: incidence and risk factors”, Pan Afr Med J.;25.

[8] Freidman LS (2012), “uptodate 21.6: Tests of the liver's biosynthetic capacity (eg, albumin, coagulation factors, prothrombin time)”

[9] Gaude GS, Chaudhury A, Hattiholi J (2015), “Drug induced hepatitis and the risk factors for liver injury in pulmonary tuberculosis patients”, J Family Med Prim Care; 4(2): 238–243.

[10] Gezahegn LK, Argaw E, Assefa B, Geberesilassie A, Hagazi M (2020), “Magnitude, outcome, and associated factors of antituberculosis drug-induced hepatitis among tuberculosis patients in a tertiary hospital in North Ethiopia: A cross-sectional study”, PLoS ONE 15(11): e0241346.

[11] Ghasemi BR, Haj AM, Samimi R (2011), “Drug-induced Hepatitis (Abundance and Outcome during Course of Tuberculosis Treatment): Seven-year Study on 324 Patients with Positive Sputum in Iran”. Govaresh ; 16(2):134–138.

[12] Li X, Gao P, Niu J (2019), “Metabolic comorbidities and risk of developement and severity of drug induced liver injury”, Biomed Res Int.

[13] Makhlouf HA, Helmy A, Fawzy E, El-Attar M, Rashed HA (2008), “A prospective study of antituberculous druginduced hepatotoxicity in an area endemic for liver diseases”, Hepatol Int; 2: 353–360. https://doi. org/10.1007/s12072-008-9085-y PMID: 19669265

[14] Marzuki O, Fauzi A, Ayoub S, Kamarul Imran M (2008), “Prevalence and risk factors of anti-tuberculosis drug-induced hepatitis in Malaysia”, Singapore Med J;49(9):688.

[15] Metanat M, Mood BS, Salehi M, Rakhshani M, Metanat S (2015), “Risk factors and pattern of changes in liver enzymes among the patients with anti-tuberculosis drug-induced hepatitis”, Int J Infect ;2(2):e25753.

[16] Riccardi N, Cenderello G, Borroni E, Rutigliani M, Cirillo DM (2018), “A case report of mucocutaneous tuberculosis after orthotopic liver transplantation: a challenging diagnosis”, BMC Infect Dis;18(1):1–4.

[17] Saukkonen JJ, Cohn DL, Jasmer RM, Schenker S, Jereb JA, Nolan CM, et al (2006), “An offiial ATS statement: Hepatotoxicity of antituberculosis therapy”, Am J Respir Crit Care Med; 174:935–52. pmid:17021358

[18] Shaky R, Shrestha B (2006), “Evaluation of risk factors for antituberculosis drugs-induced hepatotoxicity in Nepalese population”; Kathmandu Univ Med Sci Eng Technol;2(1).

[19] Shang P, Xia Y, Liu F, Wang X, Yuan Y, et al (2011), “Incidence, Clinical Features and Impact on Anti-Tuberculosis Treatment of Anti-Tuberculosis Drug Induced Liver Injury (ATLI) in China”; PLoS ONE; 6(7): e21836.

[20] Variane F, Rich M (2014); “Tuberculosis practical guide for clinicians nurses laboratory technicians and medical auxiliaries”; Geneva Switzerland: Medecins sans frontiers, 2014th edition.

[21] Vidyasagar Ramappa, Guruprasad P. Aithal (2013); “Hepatotoxicity Related to Anti-tuberculosis Drugs: Mechanisms and Management”; Journal of Clinical and Experimental Hepatology, Vol. 3, No. 1, 37–49

[22] Yalew Molla, Muluken Wubetu (2021); “Anti-Tuberculosis Drug Induced Hepatotoxicity and Associated Factors among Tuberculosis Patients at Selected Hospitals, Ethiopia”; Hepatic Medicine: Evidence and Research, Volume 13 Pages 1—8.

Tác giả:

Thạc sĩ – Bác sĩ TRẦN HẢI HÀ

Bác sĩ chuyên khoa I TRƯƠNG THỊ BÍCH PHƯƠNG

Trường Đại học Trà Vinh

Cùng chuyên mục

Cải cúc - Loại rau bình dị, vị thuốc trong vườn nhà

Cải cúc - Loại rau bình dị, vị thuốc trong vườn nhà

Rau cải cúc (còn gọi là tần ô) từ lâu đã là nguyên liệu quen thuộc trong bữa ăn của nhiều gia đình Việt. Không chỉ có hương thơm dịu, vị ngọt mát đặc trưng, cải cúc còn được y học cổ truyền đánh giá là một loại rau có dược tính, giúp hỗ trợ điều trị nhiều chứng bệnh thường gặp.
Vườn thuốc nam tại gia: 7 loại cây dễ trồng và công dụng chữa bệnh thông thường

Vườn thuốc nam tại gia: 7 loại cây dễ trồng và công dụng chữa bệnh thông thường

Việc tự tay tạo một "tủ thuốc" xanh ngay tại nhà không chỉ là một thú vui tao nhã mà còn là giải pháp thông minh, cung cấp nguồn dược liệu tươi sạch, hiệu quả để xử lý nhanh chóng các vấn đề sức khỏe thường gặp. Dưới đây là 7 loại cây thuốc nam quen thuộc, dễ trồng và có giá trị cao mà gia đình bạn nên sở hữu.
Bài thuốc dân gian từ cốt khí củ

Bài thuốc dân gian từ cốt khí củ

Cây cốt khí hay còn gọi là hổ trượng căn, điền thất, hoạt huyết đan, ban trượng căn…có vị đắng, tính ấm. Cây cốt khí thường mọc hoang ở các vùng đồi núi nước ta, rễ củ của loại cây này có khả năng kháng khuẩn, kháng virus, chống u xơ, chống huyết khối. Thường được dùng để chữa phong thấp, chấn thương, huyết áp, viêm gan, điều hoà kinh nguyệt,… Dưới đây là những bài thuốc dân gian từ cốt khí củ để bà con tham khảo.
Lá lốt - Vị thuốc dân gian giúp giảm đau xương khớp hiệu quả

Lá lốt - Vị thuốc dân gian giúp giảm đau xương khớp hiệu quả

Lá lốt là loại thảo dược gần gũi, dễ sử dụng và mang lại nhiều lợi ích cho hệ xương khớp nhờ khả năng chống viêm, giảm đau, tán hàn và hoạt huyết. Khi được dùng đúng cách, lá lốt có thể trở thành giải pháp tự nhiên giúp nhiều người giảm bớt đau nhức và cải thiện chất lượng cuộc sống, đặc biệt trong những ngày thời tiết lạnh ẩm.
Hội đông Y Việt Nam: Lương y Hoàng Nguyên Cát và những bài thuốc quý của Thái Y viện triều Nguyễn

Hội đông Y Việt Nam: Lương y Hoàng Nguyên Cát và những bài thuốc quý của Thái Y viện triều Nguyễn

SKV - Ngày 11-12 tại Hà Nội, Hội Đông y Việt Nam tổ chức Hội nghị khoa học toàn quốc “Về thân thế, sự nghiệp của Lương y Hoàng Nguyên Cát và những bài thuốc quý, hiệu quả cao chăm sóc sức khỏe Vua Minh Mạng của Thái Y viện triều Nguyễn”.
Kỳ 3: Công dụng và các bài thuốc từ cây cúc tần

Kỳ 3: Công dụng và các bài thuốc từ cây cúc tần

Trong y học cổ truyền, cúc tần được xem là một trong những vị thuốc có giá trị bởi đặc tính mát, vị đắng nhẹ, quy kinh vào phế và thận. Với khả năng thanh nhiệt, tiêu viêm, lợi tiểu, hoạt huyết và giảm đau, loài cây này xuất hiện trong nhiều bài thuốc dân gian dùng để chữa cảm sốt, đau nhức xương khớp, viêm phế quản hay các chứng bệnh do phong hàn gây nên. Y học hiện đại cũng đã có những nghiên cứu bước đầu chứng minh một số tác dụng sinh học của tinh dầu cúc tần, củng cố thêm giá trị của loài cây này trong điều trị hỗ trợ.

Các tin khác

Bạn có biết: Lợi ích sức khỏe và bài thuốc từ quả trám

Bạn có biết: Lợi ích sức khỏe và bài thuốc từ quả trám

Trám là một loại quả nhỏ nhưng giàu giá trị dinh dưỡng và công dụng y học cổ truyền. Từ lâu, trám đã được dùng trong ẩm thực và làm thuốc, mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe.
Kỳ 2 – Thành phần hóa học và cách thức khai thác dược liệu cây cúc tần

Kỳ 2 – Thành phần hóa học và cách thức khai thác dược liệu cây cúc tần

Cúc tần không chỉ là loài cây quen thuộc trong đời sống dân gian mà còn là một trong những dược liệu được sử dụng phổ biến trong Đông y nhờ thành phần hoạt chất phong phú. Chính sự đa dạng này đã tạo nên giá trị y học của cúc tần và khiến loài cây này trở thành nguồn dược liệu dễ khai thác, đáp ứng nhiều mục đích chăm sóc sức khỏe.
Kỳ 1: Đặc điểm sinh học của cây cúc tần

Kỳ 1: Đặc điểm sinh học của cây cúc tần

Cây cúc tần, còn được gọi bằng nhiều tên khác nhau như đại ngải, băng phiến ngải, đại bi, từ bi hay lức ấn, là một loài cây thuộc họ Cúc (Asteraceae). Từ lâu, cúc tần đã quen thuộc với người dân ở nhiều vùng quê Việt Nam nhờ đặc tính dễ trồng, mọc khỏe và có mùi thơm dịu từ tinh dầu. Xét về nguồn gốc, loài cây này được cho là xuất phát từ khu vực Malaysia và Ấn Độ, sau đó lan rộng sang nhiều quốc gia châu Á, trong đó có Việt Nam.
10 loại thảo dược giúp an thần, giảm căng thẳng theo y học cổ truyền

10 loại thảo dược giúp an thần, giảm căng thẳng theo y học cổ truyền

Trong cuộc sống hiện đại, áp lực công việc và nhịp sống nhanh khiến nhiều người rơi vào trạng thái căng thẳng, lo âu kéo dài. Y học cổ truyền Việt Nam vốn có kho tàng phong phú các vị thuốc Nam có tác dụng an thần, dưỡng tâm, giúp cân bằng tinh thần. Dưới đây là một số dược liệu thường dùng, cùng phân tích và cách áp dụng trong đời sống.
Rau củ mùa đông: Những “vị thuốc” quen thuộc giúp bồi bổ và tăng cường sức khỏe

Rau củ mùa đông: Những “vị thuốc” quen thuộc giúp bồi bổ và tăng cường sức khỏe

Mùa đông là thời điểm cơ thể dễ suy giảm sức đề kháng, khô da, nhiễm lạnh và rối loạn tiêu hóa. Tuy nhiên, thiên nhiên cũng ưu ái ban tặng nhiều loại rau củ đặc trưng cho mùa này, vừa giàu dinh dưỡng theo y học hiện đại, vừa có giá trị như “vị thuốc” theo y học cổ truyền. Dưới đây là những loại rau củ phổ biến trong mùa đông và lợi ích sức khỏe nổi bật.
Bài 3: Những lưu ý khi dùng dây gắm chữa bệnh

Bài 3: Những lưu ý khi dùng dây gắm chữa bệnh

Dây gắm là một trong những dược liệu quen thuộc trong y học cổ truyền, thường được sử dụng để hỗ trợ điều trị các bệnh về xương khớp, phong tê thấp, đau nhức mạn tính… Nhờ đặc tính thanh nhiệt, giải độc, tiêu viêm, dây gắm được nhiều người tin dùng như một giải pháp tự nhiên, lành tính. Tuy nhiên, để đạt hiệu quả điều trị tốt và đảm bảo an toàn cho sức khỏe, người bệnh cần nắm rõ những lưu ý quan trọng khi sử dụng loại thảo dược này.
Bài 2: Một số bài thuốc Đông y từ cây gắm phổ biến

Bài 2: Một số bài thuốc Đông y từ cây gắm phổ biến

Từ những thông tin trên, chúng ta có thể thấy được cây gắm đối với sức khỏe của chúng ta là vô cùng có lợi. Dưới đây là một vài bài thuốc phổ biến từ cây gắm cho một vài loại bệnh lý điển hình, tuy nhiên, các bài thuốc chỉ mang tính chất tham khảo, việc sử dụng cần có chỉ định của bác sĩ.
Bài 1: Những lợi ích tuyệt vời của cây gắm

Bài 1: Những lợi ích tuyệt vời của cây gắm

Cây gắm là một loại cây mọc khá nhiều ở Việt Nam. Không đơn thuần chỉ là một loại thực vật, cây gắm còn được biết đến là một loại dược liệu có hiệu quả điều trị nhiều căn bệnh khác nhau. Đó cũng là lý do vì sao cây gắm có mặt trong nhiều bài thuốc Đông y từ xưa đến nay.
Bài 3: Những lưu ý khi dùng cây chìa vôi làm thuốc chữa bệnh thoát vị đĩa đệm

Bài 3: Những lưu ý khi dùng cây chìa vôi làm thuốc chữa bệnh thoát vị đĩa đệm

Trong quá trình áp dụng các bài thuốc từ cây chìa vôi để hỗ trợ điều trị thoát vị đĩa đệm, người bệnh cần tuân thủ một số lưu ý quan trọng để đảm bảo hiệu quả và tránh những tác dụng không mong muốn. Việc sử dụng dược liệu tự nhiên tuy an toàn nhưng vẫn đòi hỏi sự cẩn trọng, đặc biệt khi người bệnh đang trong giai đoạn đau nặng hoặc có bệnh lý nền phức tạp.
Bài 2: Có thể dùng cây chìa vôi chữa thoát vị đĩa đệm theo các cách sau

Bài 2: Có thể dùng cây chìa vôi chữa thoát vị đĩa đệm theo các cách sau

Dược liệu cây chìa vôi khi được dùng đúng cách sẽ tác động trực tiếp đến phần đĩa đệm đang bị tổn thương, hỗ trợ quá trình hồi phục từ bên trong. Khi đi vào cơ thể, các hoạt chất có trong dược liệu giúp tăng độ bền thành mạch, giảm co cứng cơ, từ đó bổ sung dưỡng chất cho vùng đĩa đệm bị tổn thương và cải thiện lưu thông khí huyết. Nhờ những tác động này, cơn đau do thoát vị đĩa đệm được giảm thiểu dần theo thời gian.
Xem thêm
Hội Nam Y Việt Nam và hành trình lan tỏa yêu thương đến 280 hộ đồng bào Rục ở Kim Phú (Quảng Trị)

Hội Nam Y Việt Nam và hành trình lan tỏa yêu thương đến 280 hộ đồng bào Rục ở Kim Phú (Quảng Trị)

Trong hai ngày 12 và 13/12/2025, Hội Nam Y Việt Nam đã thực hiện một hành trình thiện nguyện đặc biệt, mang theo khoảng 20 tấn hàng hóa với tổng trị giá hơn 500 triệu đồng đến với đồng bào Rục tại xã Kim Phú, tỉnh Quảng Trị.
Diễn đàn quốc tế Lạc Bệnh Học lần thứ 21: Hội Nam Y Việt Nam làm cầu nối đưa Lạc Bệnh Học vươn tầm thế giới

Diễn đàn quốc tế Lạc Bệnh Học lần thứ 21: Hội Nam Y Việt Nam làm cầu nối đưa Lạc Bệnh Học vươn tầm thế giới

TTND. GS. TS. Trương Việt Bình khẳng định, Hội Nam Y Việt Nam sẽ tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế, đặc biệt với các cơ sở nghiên cứu hàng đầu của Trung Quốc và nhiều quốc gia khác, nhằm đưa Lạc bệnh học cũng như y học cổ truyền Việt Nam lên tầm cao mới.
Hội thảo khoa học “Sức khỏe não bộ: Phòng ngừa suy giảm và tăng cường trí nhớ” - Cùng hành động và chăm sóc sức khỏe cộng đồng

Hội thảo khoa học “Sức khỏe não bộ: Phòng ngừa suy giảm và tăng cường trí nhớ” - Cùng hành động và chăm sóc sức khỏe cộng đồng

Ngày 9/11, tại Khu Du lịch Ao Vua (Hà Nội), hơn 200 đại biểu, chuyên gia, bác sĩ đầu ngành trong lĩnh vực y học hiện đại và y học cổ truyền đã tham dự Hội thảo khoa học “Sức khỏe não bộ: Phòng ngừa suy giảm và tăng cường trí nhớ”.
Chi hội Nam y Trà Vinh tổ chức thành công đại hội đại biểu lần thứ II, nhiệm kỳ 2025-2030

Chi hội Nam y Trà Vinh tổ chức thành công đại hội đại biểu lần thứ II, nhiệm kỳ 2025-2030

SKV - Vĩnh Long, ngày 3/11/2025 – Trong không khí hân hoan và trang trọng, Chi Hội Nam Y Trà Vinh trực thuộc Hội Nam Y Việt Nam đã long trọng tổ chức Đại hội Đại biểu lần thứ II, nhiệm kỳ 2025 – 2030, đánh dấu bước phát triển mới sau 5 năm hoạt động tích cực, hiệu quả trong công tác khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền và chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Chi hội Nam y tỉnh An Giang lan tỏa yêu thương – trao gửi niềm tin tới người dân khó khăn khóm Long Thạnh

Chi hội Nam y tỉnh An Giang lan tỏa yêu thương – trao gửi niềm tin tới người dân khó khăn khóm Long Thạnh

Thực hiện kế hoạch công tác thường niên quý III năm 2025, Chi Hội Nam y tỉnh An Giang đã tổ chức chương trình thiện nguyện ý nghĩa tại khóm Long Thạnh, phường Long Phú, tỉnh An Giang.
Phiên bản di động