Associated Factors with Nursing Students’ Knowledge and Attitudes Regarding Contraceptive Practices

Yếu tố liên quan kiến thức, thái độ về biện pháp tránh thai của sinh viên điều dưỡng

Tóm tắt: Biện pháp tránh thai (BPTT) là hành động ngăn ngừa mang thai. Đây có thể là một thiết bị, một loại thuốc, một quy trình hoặc một hành vi. Tránh thai cho phép mọi người kiểm soát sức khoẻ sinh sản và khả năng tham gia tích cực vào kế hoạch hóa gia đình.

Từ khóa: kiến thức, thái độ, biện pháp tránh thai, sinh viên điều dưỡng.

Abstract: Contraceptive methods (CMs) are measures taken to prevent pregnancy. These may include a device, a medication, a procedure, or a behavior. Contraception enables individuals to control their reproductive health and actively participate in family planning.

Keywords: knowledge, attitude, contraception, nursing students.

Ngày nhận bài: 14/02/2025

Ngày hoàn thiện biên tập: 6/3/2025

Ngày duyệt đăng: 14/3/2025

Bài đăng trên Tạp chí in Sức Khỏe Việt số Tháng 3+4/2025

Đánh giá yếu tố liên quan kiến thức, thái độ về biện pháp tránh thai của sinh viên Điều dưỡng. Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang. Có mối liên quan giữa kiến thức của sinh viên Điều dưỡng với tuổi, giới tính, năm học. Có mối liên quan giữa kiến thức, thái độ của sinh viên Điều dưỡng với quê quán, người yêu, nguồn tiếp cận thông tin là trường học, bạn bè và trung tâm tư vấn. Có mối liên quan giữa thái độ của sinh viên Điều dưỡng với nguồn tiếp cận thông tin từ báo chí, truyền hình, gia đình và internet.

Đặt vấn đề

Phá thai đang là một trong những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tử vong mẹ trên toàn thế giới. Có nhiều nguyên do để người mẹ quyết định phá thai nhưng mang thai ngoài ý muốn là một trong những nguyên nhân gặp nhiều nhất, chủ yếu là do không sử dụng hoặc sử dụng không hiệu quả biện pháp tránh thai (Hiền Minh, 2023). Do đó kiến thức, thái độ về biện pháp tránh thai cho sinh viên nhằm góp phần giảm các rủi ro mang thai ngoài ý muốn, nguy cơ mắc các bệnh lây qua đường tình dục, đồng thời có kiến thức và kỹ năng tư vấn sức khoẻ cộng đồng.

Tổng quan y văn

Biện pháp tránh thai (BPTT) là hành động ngăn ngừa mang thai. Đây có thể là một thiết bị, một loại thuốc, một quy trình hoặc một hành vi. Tránh thai cho phép mọi người kiểm soát sức khoẻ sinh sản và khả năng tham gia tích cực vào kế hoạch hóa gia đình. Kiểm soát sinh sản đã được sử dụng từ thời cổ đại, nhưng các phương pháp ngừa thai hiệu quả và an toàn chỉ có sẵn trong thế kỷ 20. Lập kế hoạch, làm cho có sẵn và sử dụng kiểm soát sinh sản được gọi là kế hoạch hóa gia đình (O.M.Bansode, 2024).

Nghiên cứu “Kiến thức, thái độ và thực hành về sử dụng biện pháp tránh thai trong giới trẻ tại các Trường Đại học được chọn ở Zimbabwe” của Marimirofa M và cộng sự năm 2022 có 95% phụ nữ trẻ trong các cơ sở Đại học đã từng nghe nói về BPTT và 27% đã từng sử dụng BPTT. Thuốc tránh thai là phương pháp tránh thai phổ biến nhất được biết đến 85% (M.Marimirofa, 2022).

Nghiên cứu “Kiến thức về các biện pháp tránh thai và các yếu tố liên quan ở sinh viên khối ngành khoa học sức khoẻ” của Nguyễn Tấn Thạch và cộng sự năm 2023, sinh viên (SV) Điều dưỡng lần lượt có điểm trung bình kiến thức đều thấp hơn các ngành còn lại, Y Đa khoa là 1,01 điểm, Răng Hàm Mặt là 0,86 điểm và Dược học là 0,94 điểm, SV khối ngành sức khoẻ có kiến thức chưa đầy đủ về các BPTT. Ở nhóm SV ngành Điều dưỡng, kiến thức thực tại của họ thấp hơn hầu hết SV các ngành còn lại (Nguyễn Tấn Thạch và cộng sự, 2023).

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu thiết kế mô tả cắt ngang. Thực hiện trên 430 SV Điều dưỡng đang theo học tại Trường Đại học Trà Vinh từ 05 - 07/2024. Với tiêu chí chọn vào: SV Điều dưỡng Trường Đại học Trà Vinh đồng ý tham gia nghiên cứu; tiêu chí loại ra: SV không trả lời hoàn chỉnh bộ câu hỏi.

Chọn mẫu bằng kỹ thuật chọn cỡ mẫu toàn bộ.

Quy trình thu thập số liệu gồm 3 bước: Bước 1: Nghiên cứu viên dựa vào danh sách SV Điều dưỡng Trường Đại học Trà Vinh. Bước 2: Lập danh sách SV Điều dưỡng Trường Đại học Trà Vinh cho đủ tiêu chuẩn chọn mẫu. Bước 3: Phát vấn đối tượng bằng bộ câu hỏi.

Nhập liệu, xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 25.0. Mối liên quan sử dụng kiểm định chi bình phường (c2).

Kết quả nghiên cứu

Một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ về các BPTT của SV Điều dưỡng

Mối liên quan đến kiến thức, thái độ về BPTT và tuổi của SV Điều dưỡng

Có mối liên quan giữa tuổi với kiến thức về BPTT của SV Điều dưỡng, nhóm SV có độ tuổi từ 20 – 21 có tỷ lệ kiến thức đạt là 9% cao hơn gấp 6,8 lần so với nhóm tuổi 18 – 19 có tỷ lệ 1,4% SV có kiến thức đạt. Nghiên cứu của Nguyễn Thanh Phong những SV có độ tuổi ≥ 20 có kiến thức cao hơn nhóm tuổi còn lại (Nguyễn Thanh Phong, 2017).

Không có mối liên quan giữa tuổi với thái độ về BPTT của SV Điều dưỡng.

Mối liên quan đến kiến thức, thái độ về BPTT và giới tính của SV Điều dưỡng

Có mối liên quan giữa giới tính với kiến thức về BPTT của SV Điều dưỡng, tỷ lệ SV nam có kiến thức đạt chỉ 1,3% thấp hơn 7,2 lần so với SV nữ có tỷ lệ kiến thức đạt là 9,3%. Nghiên cứu của Nguyễn Thanh Phong tỷ lệ SV nữ có kiến thức tốt cao hơn SV nam (Nguyễn Thanh Phong, 2017). Nghiên cứu của Trần quang Tuấn SV nữ có kiến thức tốt hơn SV nam gấp 3,5 lần (Trần Quang Tuấn, Đào Thị Hồng Nhung, 2023). Nghiên cứu của I.M.López – Medina và cộng sự SV Điều dưỡng nữ có kiến thức về BPTT hơn SV nam (I.M.López-Medina S.Sanz-Martos et al, 2020). Nghiên cứu của K. Part các SV nam tại Đại học Venda không quan tâm đến việc sử dụng BPTT (K. Part et al, 2013).

Mối liên quan đến kiến thức, thái độ về BPTT và năm học của SV Điều dưỡng

Có mối liên quan giữa năm học với kiến thức về BPTT của SV Điều dưỡng, SV học từ năm 3 trở lên có kiến thức cao gấp 5,7 lần so với SV học năm nhất và năm 2. Nghiên cứu của Nguyễn Tấn Thạch ở Đại học Đà Nẵng các SV năm 1 có kiến thức thấp hơn những năm còn lại, điểm trung bình kiến thức SV năm 1 thấp hơn năm 2 là 0,72, năm 3 là 0,63, năm 4 là 1,20 điểm (Nguyễn Tấn Thạch và cộng sự, 2023). Theo kết quả của Mai Thuý Mai và cộng sự kết luận rằng SV năm 4 có tỷ lệ kiến thức đạt cao hơn hẳn so với SV năm nhất (Mai Thúy Mai, Phạm Văn Thân, 2021). Nghiên cứu của Nguyễn Thanh Phong những SV đã được học về sức khoẻ sinh sản có kiến thức cao gấp 2,6 lần SV chưa được học về sức khoẻ sinh sản (Nguyễn Thanh Phong, 2017).

Không có mối liên quan giữa năm học với thái độ về BPTT của SV Điều dưỡng.

Mối liên quan đến kiến thức, thái độ về BPTT và quê quán của SV Điều dưỡng

Có mối liên quan giữa quê quán với kiến thức về BPTT của SV Điều dưỡng, SV sống ở thành thị có kiến thức cao gấp 3,7 lần so với SV sống ở nông thôn.

Có mối liên quan giữa quê quán với thái độ về BPTT của SV Điều dưỡng, SV sống ở thành thị có thái độ tốt hơn SV ở nông thôn gấp 1,96 lần. Nghiên cứu của Nguyễn Thanh Phong không có sự khác biệt giữa SV sống ở nông thôn và thành thị (Nguyễn Thanh Phong, 2017). Nghiên cứu trên thanh thiếu niên chưa lập gia đình ở Bang Osun, Nigeria kiến thức về BPTT ở thành thị 92% cao hơn nông thôn 74,7% (OK Israel et al, 2019).

Mối liên quan đến kiến thức, thái độ về biện pháp tránh thai và nơi ở của SV Điều dưỡng

Không có mối liên quan giữa nơi ở với kiến thức, thái độ về BPTT của SV Điều dưỡng. Nghiên cứu của Nguyễn Thanh Phong sự khác biệt giữa nơi ở và kiến thức BPTT của SV cũng không có ý nghĩa thống kê (Nguyễn Thanh Phong, 2017).

Mối liên quan đến kiến thức, thái độ về BPTT và việc SV Điều dưỡng có người yêu

Có mối liên quan giữa SV Điều dưỡng có người yêu với kiến thức, thái độ về BPTT của SV Điều dưỡng, giữa SV đang có/đã từng có nhưng hiện tại không có người yêu với SV chưa có người yêu thì SV đang có/đã từng có nhưng hiện tại không có người yêu có kiến thức đạt, thái độ tốt cao gấp 2,7 lần và 2,5 lần so với SV chưa có người yêu. Nghiên cứu Trần Quang Tuấn SV có hoặc đã từng có người yêu có kiến thức tốt cao gấp 2,078 lần so với nhóm chưa có người yêu. Có mối liên quan giữa nhóm SV kiến thức tốt về các BPTT với giới tính, có hoặc đã có người yêu (Trần Quang Tuấn, Đào Thị Hồng Nhung, 2023). Nghiên cứu trên SV Trường Cao đẳng/Đại học ở Hà Nội có/đã có người yêu có kiến thức tốt về các BPTT cao gấp 1,6 lần so với nhóm SV chưa có người yêu (Nguyễn Thanh Phong, 2017).

Mối liên quan đến kiến thức, thái độ về BPTT và nguồn thông tin về BPTT

Có mối liên quan giữa nguồn thông tin về BPTT với kiến thức, thái độ về BPTT của SV Điều dưỡng, nguồn thông tin từ trường học có ảnh hưởng đến kiến thức, thái độ về BPTT của SV. Nhóm SV nhận thông tin từ trường học có kiến thức đạt cao gấp 4,04 lần so với SV không nhận thông tin BPTT từ trường học. Nghiên cứu của Trần Quang Tuấn SV tiếp cận thông tin từ bạn bè có kiến thức tốt hơn SV không nhận thông về BPTT từ bạn bè (Trần Quang Tuấn, Đào Thị Hồng Nhung, 2023). Nghiên cứu của Nguyễn Thanh Phong cho thấy SV tiếp nhận thông tin từ bạn bè có kiến thức tốt gấp 2,2 lần và thái độ tốt cao gấp 1,7 lần so với nhóm SV không tiếp cận thông về BPTT từ bạn bè, trung tâm tư vấn có ảnh hưởng đến kiến thức, thái độ về BPTT của SV (Nguyễn Thanh Phong, 2017). Nghiên cứu của Sebastián López – Medina trên SV Điều dưỡng trẻ về BPTT ở Tây Ban Nha những SV có được thông tin từ các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe có trình độ kiến thức cao hơn đáng kể và thái độ tuyệt vời đối với việc sử dụng BPTT (Sebastián López-Medina Sanz-Martos et al, 2020).

Báo chí, truyền hình và internet cũng là một trong những yếu tố liên quan đến thái độ về BPTT của SV. SV có nhận thông tin từ báo chí, truyền hình và internet có thái độ tốt gấp 4,3 lần và 7,7 lần so với SV không tiếp nhận thông tin BPTT từ báo chí, truyền hình và internet.

Gia đình cũng là một nguồn thông tin liên quan đến thái độ của SV. Sinh viên nhận thông tin BPTT từ gia đình có thái độ tốt gấp 2,7 lần so với SV không được tiếp cận thông tin từ gia đình.

KẾT LUẬN

Có mối liên quan giữa kiến thức của SV Điều dưỡng với tuổi, giới tính, năm học.

Có mối liên quan giữa kiến thức, thái độ của SV Điều dưỡng với quê quán, người yêu, nguồn tiếp cận thông tin là trường học, bạn bè và trung tâm tư vấn.

Có mối liên quan giữa thái độ của SV Điều dưỡng với nguồn tiếp cận thông tin từ báo chí, truyền hình, gia đình và internet.

Tài liệu tham khảo:

Tiếng Việt

[1] Mai Thúy Mai, Phạm Văn Thân. (2021). Kiến thức, thái độ, thực hành và một số yếu tố liên quan về sức khoẻ sinh sản của sinh viên học viện y năm 2017. Tạp chí Y học Quân sự (350), 48-52.

[2] Hiền Minh. (2023). Lý do mang thai ngoài ý muốn chiếm phần lớn trong số ca phá thai.

[3] Nguyễn Tấn Thạch, Nguyễn Thị Phương Trinh, Nguyễn Thị Mỹ Hiếu, Nguyễn Thị Tường Vi, Hoàng Thị Nam Giang. (2023). Kiến thức về các biện pháp tránh thai và các yếu tố liên quan ở sinh viên khối ngành khoa học sức khỏe. Tạp chí Khoa học và Công nghệ - Đại học Đà Nẵng, 89-93.

[4] Nguyễn Thanh Phong. (2017). Nghiên cứu kiến thức, thái độ, thực hành về các biện pháp tránh thai của sinh viên một số Trường Đại học/Cao đẳng Thành phố Hà Nội và hiệu quả giải pháp can thiệp. Tạp chí Y học Hà Nội.

[5] Trần Quang Tuấn, Đào Thị Hồng Nhung. (2023). Thực trạng kiến thức về biện pháp tránh thai của sinh viên Điều dưỡng Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định năm 2022. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân, 528 (2).

Tiếng Anh

[6] OK Israel, AA Adeomi, OA Adeoye, MG Israel, AI Olugbenga-Bello. (2019). Contraceptive Knowledge, Access and Up-take among Rural and Urban Unmarried in-school Adolescents in Osun State, Nigeria: A Comparative Study. J Community Med Public Health, 3 (166), 2577-2228.100066.

[7] M.Marimirofa, M.Murwira, F.Machinga, A.Zvoushe, L. S.Gamba. (2022). Knowledge, attitudes and practices on contraceptive use among young people in selected universities in Zimbabwe. Afr J Reprod Health, 26 (10), 55-62.

[8] O.M.Bansode, M.S.Sarao, D.B.Cooper. (2024). Contraception. StatPearls. StatPearls Publishing Copyright © 2024. StatPearls Publishing LLC, Treasure Island (FL).

[9] K. Part, C. Moreau, S. Donati, M. Gissler, I. Fronteira, H. Karro. (2013). Teenage pregnancies in the European Union in the context of legislation and youth sexual and reproductive health services. Acta Obstet Gynecol Scand, 92 (12), 1395-406.

[10] I.M.López-Medina S.Sanz-Martos, C.Álvarez-García et al. (2020). Young Nursing Student's Knowledge and Attitudes about Contraceptive Methods. Int J Environ Res Public Health, 17 (16).

[11] Sebastián López-Medina Sanz-Martos et al. (2020). Young nursing student’s knowledge and attitudes about contraceptive methods. International Journal of Environmental Research and Public Health, 17 (16), 5869.

ThS. Trương Thị Bích Uyên, ThS. Trần Thị Hồng Phương, Huỳnh Thị Trút - Trường Đại học Trà Vinh
https://suckhoeviet.org.vn

Tin liên quan

Kiến thức về sử dụng thuốc hợp lý của sinh viên dược, Trường Đại học Trà Vinh

Kiến thức về sử dụng thuốc hợp lý của sinh viên dược, Trường Đại học Trà Vinh

Kiến thức về việc sử dụng thuốc hợp lý đề cập đến khả năng tiếp cận, sàng lọc, đánh giá thông tin và đưa ra quyết định liên quan đến việc sử dụng thông tin để thay đổi hành vi, lựa chọn các thông tin, dịch vụ và sản phẩm liên quan đến sức khỏe.
Kiến thức, thái độ và thực hành của phụ huynh về chăm sóc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ dưới 5 tuổi tại Bệnh viện Sản - Nhi Trà Vinh

Kiến thức, thái độ và thực hành của phụ huynh về chăm sóc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ dưới 5 tuổi tại Bệnh viện Sản - Nhi Trà Vinh

Tại Việt Nam, nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính vẫn là một trong những nguyên nhân hàng đầu về tỷ lệ mắc bệnh và tử vong ở trẻ. Theo thống kê của Bộ Y Tế (2016) cho thấy tỷ lệ mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ dưới 5 tuổi là khá cao với 24%, đồng thời thông qua báo cáo tại Hội nghị Khoa học thường niên Hội Hô Hấp Việt Nam (2019) cho thấy tỷ lệ nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính nặng gây tử vong ở Việt Nam cao gấp 10 lần so với các nước Úc, Nhật.
Sự tự tin trong thực hành lâm sàng của sinh viên điều dưỡng Trường Đại học Trà Vinh năm 2024

Sự tự tin trong thực hành lâm sàng của sinh viên điều dưỡng Trường Đại học Trà Vinh năm 2024

Năng lực thực hành lâm sàng của sinh viên điều dưỡng đã được đề cập đến như là mục tiêu chính và là tiêu chí hiệu quả trong giáo dục điều dưỡng, bao gồm khả năng áp dụng kiến thức và thông tin, kỹ năng giao tiếp với bệnh nhân, người nhà và giao tiếp giữa các cá nhân, kỹ năng giải quyết vấn đề và kỹ năng thực hiện các thủ thuật điều dưỡng.

Cùng chuyên mục

Khảo sát mối liên hệ giữa thể bệnh Guilain - Barré và các hội chứng bệnh cảnh Nuy chứng hướng thượng của Y học cổ truyền

Khảo sát mối liên hệ giữa thể bệnh Guilain - Barré và các hội chứng bệnh cảnh Nuy chứng hướng thượng của Y học cổ truyền

Tóm tắt: Hội chứng Guillain-Barré theo YHHĐ là tình trạng xuất hiện những rối loạn thần kinh - cơ mà trong đó hệ thống miễn dịch của cơ thể tấn công các dây thần kinh ngoại biên gây ra tổn thương hủy myelin và thậm chí có thể mô thần kinh.
Bước đầu tìm hiểu mối liên hệ “Thời bệnh” Y học cổ truyền và bệnh truyền nhiễm

Bước đầu tìm hiểu mối liên hệ “Thời bệnh” Y học cổ truyền và bệnh truyền nhiễm

Tóm tắt: Bệnh truyền nhiễm của Y học hiện đại (YHHĐ) được mô tả trong bệnh cảnh “Thời bệnh” của Y học cổ truyền (YHCT). Trên thế giới và ở Việt Nam chưa có công trình nào nghiên cứu về “mối liên hệ “Thời bệnh” và bệnh truyền nhiễm” nên chúng tôi nghiên cứu bước đầu để tìm hiểu về vấn đề này nhằm chẩn đoán, kê toa thuốc cũng như tiên lượng bệnh đạt được hiệu quả tốt hơn.
Kinh nghiệm chẩn đoán bệnh trĩ trong hội chứng bệnh cảnh hậu môn trĩ ngoại khoa Y học cổ truyền

Kinh nghiệm chẩn đoán bệnh trĩ trong hội chứng bệnh cảnh hậu môn trĩ ngoại khoa Y học cổ truyền

Theo quan niệm của y văn cổ: “Trĩ là bộ phận bị sa ra ngoài. Ở mũi gọi là Tỵ trĩ, vùng Hạ tiêu gồm âm đỉnh (sa sinh dục), sa trôn trê (sa trực tràng), huyết trĩ (búi máu hậu môn) gọi chung là Hạ trĩ. Từ Hậu môn sa ra (sa trôn trê, huyết trĩ) gọi là Hậu môn trĩ.
Tế bào T qua trung gian Cytokine yếu tố chính trong á sừng do viêm da dị ứng

Tế bào T qua trung gian Cytokine yếu tố chính trong á sừng do viêm da dị ứng

Tóm tắt: Á sừng là bệnh viêm da dị ứng (AD) mãn tính được đặc trưng bởi rối loạn chức năng hàng rào da, rối loạn đáp ứng miễn dịch và sinh học với khuẩn lạc của Staphylococcus. Sự xâm nhập của nhiều tập hợp tế bào trợ giúp T khác nhau vào vùng da bị tổn thương và sau đó giải phóng cytokine là dấu hiệu đặc trưng của AD. Sự giải phóng các cytokine bởi cả tế bào T và tế bào sừng đóng vai trò chính trong tình trạng viêm da và gây ra bệnh AD.
Kinh nghiệm chẩn đoán chứng “Năng thương” Y học cổ truyền tại bệnh viện 30.4 Bộ Công an

Kinh nghiệm chẩn đoán chứng “Năng thương” Y học cổ truyền tại bệnh viện 30.4 Bộ Công an

Bỏng là một tai nạn sinh hoạt thường gặp nhất, xếp sau tai nạn chấn thương. Bỏng do nhiệt ướt chiếm đa số chiếm 53-61%. Bỏng ở bề mặt nặng dần từ nông vào sâu, từ ngoài vào trong. Sức nhiệt càng cao thì mức phá hủy càng sâu.
Phân loại viêm mũi xoang-  chứng Tỵ uyên theo học thuyết Thương hàn luận của Y học cổ truyền

Phân loại viêm mũi xoang- chứng Tỵ uyên theo học thuyết Thương hàn luận của Y học cổ truyền

Bệnh viêm mũi xoang là bệnh khá phổ biến trên toàn thế giới. Điều tra dịch tễ bệnh viêm xoang cấp tại Mỹ: cứ 7 người thì có 1 người bị viêm mũi xoang cấp (tương đương 30 triệu người mắc mỗi năm).

Các tin khác

Kinh nghiệm điều trị tiền mãn kinh bằng thuốc YHCT tại Bệnh viên 30.4 - Bộ Công an

Kinh nghiệm điều trị tiền mãn kinh bằng thuốc YHCT tại Bệnh viên 30.4 - Bộ Công an

Y học cổ truyền mô tả các triệu chứng của mãn kinh và tiền mãn kinh trong phạm vi chứng Kinh Đoạn (Kinh Đoạn Tiền Hậu Giả Chứng – kinh có kỳ mất theo độ tuổi gây ra triệu chứng thể chất có khả năng hồi phục). Ngày nay Kinh Đoạn mô tả các triệu chứng đặc biệt của người nữ trước khi hết kinh vĩnh viễn theo sinh lý lứa tuổi cần phải chữa trị vì nặng có thể ảnh hưởng đến thực thể.
Những kỹ thuật Ngoại khoa Y học cổ truyền theo kinh nghiệm dân gian

Những kỹ thuật Ngoại khoa Y học cổ truyền theo kinh nghiệm dân gian

Quy trình kỹ thuật là tài liệu hướng dẫn chuyên môn kỹ thuật trong khám bệnh, chữa bệnh, là cơ sở pháp lý để thực hiện tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trong toàn quốc được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định, đồng thời là cơ sở để xây dựng giá dịch vụ kỹ thuật, phân loại thủ thuật, phẫu thuật và những nội dung liên quan khác.
Tác dụng của châm cứu, cấy chỉ, nhĩ châm trong điều trị suy thận qua các nghiên cứu quốc tế

Tác dụng của châm cứu, cấy chỉ, nhĩ châm trong điều trị suy thận qua các nghiên cứu quốc tế

Suy thận mạn gây ra nhiều biến chứng và ảnh hưởng xấu đến chất lượng cuộc sống. Các liệu pháp y học cổ truyền như châm cứu, cấy chỉ và nhĩ châm đã được nghiên cứu quốc tế nhờ khả năng điều hòa hệ miễn dịch, cải thiện tuần hoàn và hỗ trợ chức năng thận. Bên cạnh đó, các nghiên cứu cũng chỉ ra tác động của châm cứu đối với hệ HPA.
Viêm mũi dị ứng và các bệnh cảnh của chứng Tỵ cừu, Tỵ lậu theo Lục kinh hình chứng của Y học cổ truyền

Viêm mũi dị ứng và các bệnh cảnh của chứng Tỵ cừu, Tỵ lậu theo Lục kinh hình chứng của Y học cổ truyền

Viêm mũi dị ứng là tình trạng viêm niêm mạc mũi biểu hiện bằng các triệu chứng hắt hơi liên tục, nghẹt mũi, ngứa và chảy mũi qua trung gian kháng thể và xảy ra do tiếp xúc với dị nguyên trong không khí như phấn hoa, lông động vật, lông sâu, bướm, khói bụi mà không phải do virus, vi khuẩn. Theo điều tra dịch tễ Bộ Y tế có 8% dân số từng mắc viêm mũi dị ứng và theo bệnh Viện Tai Mũi Họng Sài Gòn có 30% bệnh nhân viêm mũi dị ứng diễn tiến đến hen suyễn và 80% bệnh nhân hen có viêm mũi dị ứng.
Tác động của thói quen ngủ đến sức khỏe tinh thần và thể chất

Tác động của thói quen ngủ đến sức khỏe tinh thần và thể chất

Tóm tắt: Trong nhịp sống hiện đại, giấc ngủ thường bị xem nhẹ do áp lực công việc, thói quen thức khuya hoặc lạm dụng thiết bị điện tử. Tuy nhiên, các nghiên cứu khoa học gần đây đã chứng minh rằng giấc ngủ đóng vai trò then chốt trong việc duy trì sức khỏe thể chất và tinh thần. Ngủ không đủ giờ hoặc chất lượng kém có thể dẫn đến hàng loạt vấn đề như suy giảm miễn dịch, rối loạn chuyển hóa, trầm cảm, thậm chí làm tăng nguy cơ mắc bệnh thoái hóa thần kinh. Bài viết này sẽ phân tích chi tiết tác động của giấc ngủ đến cơ thể, đồng thời đề xuất các biện pháp khoa học để cải thiện chất lượng giấc ngủ.
Chương trình giảng ứng dụng thừa kế thuốc Nam thầy Nguyễn Kiều

Chương trình giảng ứng dụng thừa kế thuốc Nam thầy Nguyễn Kiều

(SKV) - Thầy Nguyễn Kiều là một trong những người có công lớn trong việc sáng lập và phát triển Trường Y học cổ truyền Tuệ Tĩnh – cái nôi đã đào tạo nên biết bao thế hệ thầy thuốc tài năng và đầy tâm huyết. Với lòng nhiệt thành và đam mê mãnh liệt dành cho Y học dân tộc, thầy không chỉ là người giảng dạy mà còn là nhà nghiên cứu kiệt xuất, luôn cần mẫn sưu tầm, gìn giữ, phát huy giá trị của thuốc Nam trong điều trị bệnh.
Vì một Việt Nam khỏe mạnh - Đã đến lúc hành động quyết liệt

Vì một Việt Nam khỏe mạnh - Đã đến lúc hành động quyết liệt

Một chuỗi những vụ việc không thể nhắm mắt làm ngơ, đó là gần đây, người tiêu dùng cả nước liên tiếp đón nhận những thông tin chấn động như: Thuốc giả, thuốc kém chất lượng được tuồn vào bệnh viện, khiến bệnh nhân mất cơ hội chữa bệnh. Thực phẩm chức năng trá hình thuốc chữa bệnh, quảng cáo sai sự thật tràn lan trên mạng xã hội. Sữa công thức giả, pha trộn chất lạ, khiến hàng ngàn trẻ em đứng trước nguy cơ suy dinh dưỡng, thậm chí ngộ độc. Và mới nhất, vụ “lòng xe điếu” đang len lỏi vào từng bữa ăn, mâm cơm gia đình…
Tăng thuế thuốc lá để bảo vệ sức khỏe cộng đồng

Tăng thuế thuốc lá để bảo vệ sức khỏe cộng đồng

Thuốc lá là một trong những sản phẩm hợp pháp nhưng gây hại nhất cho sức khỏe con người mà nhân loại từng biết đến. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), mỗi năm, thuốc lá giết chết hơn 8 triệu người trên toàn cầu, trong đó có khoảng 1,2 triệu người không hút thuốc nhưng vẫn phải tiếp xúc thụ động với khói thuốc. Tại Việt Nam, số người tử vong do thuốc lá cao hơn cả tử vong vì tai nạn giao thông, HIV/AIDS và sốt rét cộng lại. Tuy nhiên, điều nguy hiểm hơn cả là mức độ “bình thường hóa” của thuốc lá trong xã hội: hút thuốc vẫn được xem là thói quen phổ biến, đặc biệt ở nam giới và nhóm lao động phổ thông.
Hội chứng chuyển hóa (HCCH) ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2

Hội chứng chuyển hóa (HCCH) ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2

Hội chứng chuyển hóa (Metabolic Syndrome – MetS) là tập hợp các rối loạn chuyển hóa như tăng đường huyết, tăng huyết áp, rối loạn lipid máu và béo bụng, thường đi kèm với tình trạng kháng insulin. Ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2 (ĐTĐ típ 2), tỷ lệ mắc MetS rất cao, dao động từ 60–80% tùy theo tiêu chí chẩn đoán.
THỰC TRẠNG HÚT THUỐC LÁ Ở NAM GIỚI THÀNH PHỐ VỊ THANH, TỈNH HẬU GIANG NĂM 2022 VÀ HIỆU QUẢ CỦA PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG VỀ TÁC HẠI CỦA HÚT THUỐC LÁ

THỰC TRẠNG HÚT THUỐC LÁ Ở NAM GIỚI THÀNH PHỐ VỊ THANH, TỈNH HẬU GIANG NĂM 2022 VÀ HIỆU QUẢ CỦA PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG VỀ TÁC HẠI CỦA HÚT THUỐC LÁ

Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 420 nam giới từ 15 tuổi trở lên nhằm khảo sát thực trạng hút thuốc lá tại thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang năm 2022. Kết quả cho thấy tỷ lệ nam giới hút thuốc lá là 77,62%, cao gấp ba lần so với tỷ lệ không hút (22,38%). Trong số người hút thuốc lá, tỷ lệ hút dưới 5 năm chiếm 37,31%, từ 5–10 năm chiếm 40,30% và trên 10 năm là 22,39%. Về số điếu hút mỗi ngày, 71,84% hút dưới 10 điếu/ngày, còn lại 28,16% hút trên 10 điếu. Tỷ lệ người hút thường xuyên là 46,19%, thỉnh thoảng là 49,29%, 4,52% từ chối trả lời.
Xem thêm
Phiên bản di động