Kiến thức và các yếu tố liên quan đến bệnh động mạch vành ở người bệnh ngoại trú
Tóm tắt:
Kiến thức của người bệnh mắc bệnh động mạch vành tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Trà Vinh trong nghiên cứu này còn thấp. Chưa tìm thấy yếu tố liên quan giữa kiến thức của người bệnh mắc bệnh động mạch vành với các yếu tố được khảo sát tại thời điểm khảo sát. Kết quả nghiên cứu cung cấp các dữ liệu hữu ích, cần đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục sức khỏe nhằm nâng cao kiến thức của người bệnh về bệnh động mạch vành trong chăm sóc sức khỏe người bệnh tại các cơ sở y tế nói riêng và nâng cao chất lượng cuộc sống cộng đồng nói chung.
Từ khóa: Kiến thức; động mạch vành.
DOI: https://doi.org/10.63472/sucv.06202505
Summary:
The knowledge of patients with coronary artery disease at Tra Vinh Provincial General Hospital in this study was found to be low. No significant associations were identified between patients’ knowledge and the surveyed factors at the time of data collection. The study results provide useful data, highlighting the need to strengthen health communication and education efforts to improve patients' understanding of coronary artery disease. This is essential not only for enhancing patient care in healthcare facilities but also for improving the overall quality of life in the community.
Keywords: Knowledge; Coronary artery disease.
Ngày nhận bài: 06/05/2025
Ngày hoàn thiện biên tập: 09/05/2025
Ngày duyệt đăng: 22/05/2025
Bài đăng trên Tạp chí in Sức Khỏe Việt số Tháng 5+6/2025
Đặt vấn đề
Hiện nay có khoảng 13 triệu người mắc bệnh động mạch vành và hằng năm có khoảng 650.000 trường hợp nhồi máu cơ tim, với khoảng 515.000 trường hợp tử vong do bệnh động mạch vành [1]. Hằng năm, số ca tử vong do bệnh động mạch vành hơn 7 triệu trường hợp (chiếm khoảng 12,8% tổng các trường hợp tử vong do mọi nguyên nhân). Bệnh động mạch vành gây nhiều ảnh hưởng nghiêm trọng đến tuổi thọ, chất lượng cuộc sống cũng như chi phí điều trị và chăm sóc. Không chỉ vậy, bệnh động mạch vành còn ảnh hưởng đến tâm lý của người bệnh, giấc ngủ và hạnh phúc gia đình [2], [3].
Tại Việt Nam, theo số liệu Bộ Y tế, bệnh động mạch vành là một trong sáu nguyên nhân gây tử vong thường gặp [3]. Thông điệp của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 2016: “Bệnh tim mạch hiện đã trở thành nguyên nhân mắc bệnh và gây tử vong hàng đầu”. Hằng năm có đến 17,9 triệu người chết do các bệnh lý liên quan đến tim mạch, trong đó 85% chết do nguyên nhân động mạch vành hoặc do đột quỵ não [4]. Người bệnh mắc bệnh lý tim mạch có chất lượng cuộc sống giảm sút rất nhiều như: mất khả năng lao động, thể thao, ăn uống, kiêng cữ, phải nhập viện nhiều lần và thậm chí không thể tự chăm sóc bản thân [5]. Ngoài ra, các yếu tố nguy cơ của bệnh lý động mạch vành còn tồn tại ở nhiều cá nhân trong dân số nói chung bao gồm các bệnh: tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn chuyển hóa lipoprotein và lipid, bệnh thận mạn tính, tuổi tác, giới tính, lối sống, hút thuốc lá, chế độ ăn uống, béo phì và tiền sử gia đình [6].
Theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Thanh Tâm và cộng sự (2018) cho thấy tỷ lệ người bệnh có kiến thức đạt là 25,38% và không đạt là 74,61% [7]. Tỷ lệ bệnh nhân mắc bệnh động mạch vành có thể tăng lên do thiếu hiểu biết về căn bệnh này và sự thờ ơ, chủ quan, lối sống không lành mạnh, chế độ ăn uống và không tuân thủ điều trị bệnh đã gây nên bệnh động mạch vành [8]. Vì vậy, cần cung cấp thêm những kiến thức về bệnh động mạch vành và yếu tố nguy cơ mắc bệnh động mạch vành. Mặt khác, theo nghiên cứu của tác giả Ammouri AA và cộng sự (2016) ở Oman, nghiên cứu trên 114 người bệnh, cho thấy có 60,5% bệnh nhân có kiến thức còn thấp về bệnh động mạch vành. Mặc dù một số yếu tố nguy cơ như đái tháo đường, tiền sử gia đình mắc bệnh, béo phì, rối loạn lipid, chỉ số BMI và trình độ học vấn có liên quan đáng kể đến trình độ kiến thức. Do vậy, cần nâng cao nhận thức về các yếu tố nguy cơ và phòng ngừa bệnh [9] là một yếu tố quan trọng. Chính vì thế, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Khảo sát kiến thức của người bệnh động mạch vành tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Trà Vinh và một số yếu tố liên quan đến năm 2024” với 2 mục tiêu: Xác định kiến thức trung bình của người bệnh về bệnh động mạch vành tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Trà Vinh năm 2024 và mô tả một số yếu tố liên quan đến kiến thức của người bệnh về bệnh động mạch vành tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Trà Vinh năm 2024.
Tổng quan nghiên cứu
Nghiên cứu của tác giả Negesa LB, Magarey J, Rasmussen P, Hendriks (2018) được thực hiện tại hai bệnh viện tuyến trên ở Eastern Ethiopia, với 287 bệnh nhân được ghi danh vào nghiên cứu. Kết quả cho thấy hơn một nửa số bệnh nhân (54%) có kiến thức tốt về các yếu tố nguy cơ tim mạch (điểm > 70%), trong khi 46% thể hiện mức độ hiểu biết dưới tối ưu trong lĩnh vực này. Cư dân thành thị có liên quan đến điểm kiến thức về các yếu tố nguy cơ tim mạch cao hơn; trong khi đó, những người chưa kết hôn và không có trình độ học vấn chính quy hoặc trình độ học vấn thấp hơn được xác định là những yếu tố báo hiệu điểm kiến thức thấp hơn. Ngoài ra, tác giả cho thấy rằng gần một nửa số bệnh nhân mắc bệnh mạch vành ở Ethiopia có kiến thức không tối ưu về các yếu tố nguy cơ tim mạch. Nơi cư trú, trình độ học vấn và tình trạng hôn nhân có liên quan đến kiến thức về các yếu tố nguy cơ tim mạch. Qua đó, tác giả đã đề xuất các biện pháp can thiệp sáng tạo và tư vấn lối sống có cấu trúc do y tá hướng dẫn sẽ cần thiết để hướng dẫn hiệu quả người bệnh phát triển thay đổi lối sống và đạt được sự thay đổi hành vi bền vững [10].
Nghiên cứu của Elsheikh EA và cộng sự (2024) được thực hiện tại Ả Rập Xê Út từ tháng 8 năm 2021 đến tháng 10 năm 2022, nhắm đến những cá nhân từ 18 tuổi trở lên, với tổng cộng 1.409 người tham gia. Kết quả cho thấy 70,3% có điểm kiến thức ở mức cao, 27,4% ở mức trung bình và 2,3% ở mức thấp. Qua đó, nghiên cứu xác định mối liên quan đáng kể giữa điểm kiến thức với giới tính (p=0,03) và tuổi (p=0,01). Nghiên cứu cho thấy mức độ hiểu biết và nhận thức cao chủ yếu ở những người tham gia có liên quan đến các yếu tố nguy cơ mắc bệnh động mạch vành. Kết quả cho thấy nền tảng kiến thức và nhận thức vững chắc trong cộng đồng người dân Saudi về các yếu tố nguy cơ mắc bệnh động mạch vành và các biện pháp phòng ngừa [11].
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Thanh Tâm và cộng sự (2018) được tiến hành với đề tài “Một số yếu tố liên quan đến tuân thủ điều trị của người bệnh sau can thiệp động mạch vành qua da tại tỉnh Hải Dương năm 2018”, áp dụng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 260 người bệnh điều trị ngoại trú sau can thiệp động mạch vành qua da tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hải Dương. Trong đó, có 25,38% bệnh nhân có kiến thức đạt và 74,61% người bệnh có kiến thức không đạt [7].
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thắng và cộng sự (2020) được tiến hành thí điểm trên 117 bệnh nhân mắc hội chứng mạch vành cấp tính tại một bệnh viện ở Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, từ ngày 21/2 đến ngày 12/3 năm 2017. Qua khảo sát, tác giả cho thấy bệnh nhân có độ tuổi trung bình là 61,66 ± 8,23 tuổi, với điểm số trung bình về kiến thức là 9,58 ± 0,78 và không có mục nào thấp hơn 9 điểm. Kết quả cho thấy sự khác biệt về điểm kiến thức liên quan đến giới tính, nam giới có điểm số cao hơn đáng kể so với nữ giới (p = 0,04), và có mối liên quan đáng kể giữa trình độ học vấn và điểm kiến thức, trong đó những người có trình độ học vấn cao hơn thể hiện tốt hơn [8].
Kiến thức về bệnh động mạch vành của đối tượng nghiên cứu
Nhận xét: Người bệnh có tổng điểm kiến thức về bệnh động mạch vành trung bình là 9,00 ± 1,89 (dao động từ 0 – 20 điểm). Trong đó, lĩnh vực tình trạng bệnh lý có điểm số trung bình là 0,86 ± 0,80. Tuy nhiên, các yếu tố nguy cơ, chế độ tập thể dục và nguy cơ tâm lý – xã hội có điểm số trung bình lần lượt là 2,15 ± 0,66; 2,86 ± 0,89; 2,10 ± 0,85. Riêng chế độ dinh dưỡng có điểm số trung bình là 1,02 ± 0,92.
Một yếu tố liên quan đến kiến thức của đối tượng nghiên cứu
Nhận xét: Người bệnh dưới 65 tuổi và từ 65 tuổi trở lên có điểm số kiến thức trung bình lần lượt là 9,07 và 9,10. Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
Người bệnh nam và nữ có điểm số kiến thức lần lượt là 9,19 và 9,03. Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
KẾT LUẬN
Qua khảo sát kiến thức về bệnh động mạch vành tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Trà Vinh và mô tả một số yếu tố liên quan trong thời gian từ tháng 5 đến tháng 7 năm 2024, chúng tôi nhận thấy: về mức độ kiến thức, có 76,6% người bệnh có kiến thức trung bình và 23,7% có kiến thức kém, không có người bệnh nào có kiến thức tốt.
-
Kiến thức lĩnh vực 1 (tình trạng bệnh lý): điểm số trung bình 0,86 ± 0,80, thấp hơn so với các lĩnh vực khác.
-
Kiến thức lĩnh vực 2 (yếu tố nguy cơ): 2,25 ± 0,66.
-
Kiến thức lĩnh vực 3 (chế độ tập thể dục): 2,86 ± 0,89, cao nhất trong các lĩnh vực.
-
Kiến thức lĩnh vực 4 (chế độ dinh dưỡng): 1,02 ± 0,92.
-
Kiến thức lĩnh vực 5 (nguy cơ tâm lý – xã hội): 2,10 ± 0,85.
Qua 5 lĩnh vực cho thấy điểm số trung bình cao nhất là về chế độ tập thể dục. Điểm số kiến thức trung bình chung của người bệnh là 9,00 ± 1,89; tỷ lệ người bệnh trả lời đúng toàn bộ câu hỏi là 45,04%.
Nghiên cứu xác định một yếu tố có liên quan đến kiến thức của người bệnh là điều kiện kinh tế: nhóm hộ nghèo/cận nghèo có điểm số trung bình cao hơn nhóm không thuộc hộ nghèo/cận nghèo (10,80 ± 0,83 và 8,93 ± 1,88), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Không tìm thấy mối liên quan giữa điểm số kiến thức với các yếu tố như: tuổi, giới tính, nơi cư trú, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tham gia bảo hiểm y tế, tình trạng chung sống, bệnh kèm theo, tiền sử gia đình, mức độ bệnh lý, số lần tái nhập viện, thời gian mắc bệnh, chỉ số BMI, biến chứng, tái khám, sử dụng rượu/bia, sử dụng thuốc lá.
Tài liệu tham khảo
-
Hồ Văn Phước, Phạm Văn Hùng, “Khảo sát tuổi động mạch ở bệnh nhân bị hội chứng vành cấp tại Bệnh viện Đà Nẵng,” Tạp chí Tim mạch học Việt Nam, số 68, tr. 234–240, 2014.
-
Bệnh viện Đa khoa trung tâm tỉnh Tiền Giang, Phác đồ điều trị, Sở Y tế Tiền Giang, 2014.
-
P.A. Ades, P.D. Savage, “Obesity in coronary heart disease: An unaddressed behavioral risk factor,” Preventive Medicine, vol. 104, pp. 117–119, 2017.
-
Bộ Y tế, Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị hội chứng mạch vành mạn, Hà Nội, 2023.
-
Trần Thị Thuận, Hà Thị Như Xuân, Chăm sóc bệnh nhân tim mạch, Hà Nội: Nhà Xuất bản Y học, 2010.
-
C. Shao, J. Wang, J. Tian et al., “Coronary Artery Disease: from mechanism to clinical practice,” Coronary Artery Disease: Therapeutics and Drug Discovery, pp. 1–36, 2020.
-
Phạm Thu Hương, Nguyễn Văn Lưu, Nguyễn Thị Thanh Tâm, “Một số yếu tố liên quan đến tuân thủ điều trị của người bệnh sau can thiệp động mạch vành qua da tại tỉnh Hải Dương năm 2018,” Tạp chí Khoa học Điều dưỡng, tập 1, số 3, tr. 17, 2018.
-
Nguyễn Thắng và cộng sự, “Vietnamese version of the coronary artery disease education questionnaire – Short version: Translation, adaptation and validation,” Clinical Pharmacy and Therapeutics, số 45, tr. 691–697, 2020.
-
A.A. Ammouri, Tailakh A, Isac C et al., “Knowledge of coronary heart disease risk factors among a community sample in Oman: Pilot study,” Sultan Qaboos University Medical Journal, vol. 16, no. 2, tr. 189, 2016.
-
L.B. Negesa, J. Magarey et al., “Patients’ knowledge on cardiovascular risk factors and associated lifestyle behaviour in Ethiopia in 2018,” PLoS One, vol. 15, no. 6, p. e0234198, 2020.
-
E.A. Elsheikh et al., “Assessment of Knowledge and Awareness Regarding Coronary Artery Disease Risk Factors Among the Saudi Arabian Population: A Cross-Sectional Study,” Cureus, vol. 16, no. 1, e52299, 2024.
Tin liên quan
Bệnh viện Phúc Sơn (Thái Bình): Kết nối yêu thương, xoa dịu nỗi đau bệnh tật
14:45 | 14/06/2024 Tin tức
Sở y tế Hà Nội yêu cầu cơ sở chữa bệnh phòng, chống rét cho người bệnh
14:05 | 25/01/2024 Tin tức
Phòng chống rét cho người bệnh và người nhà người bệnh
10:03 | 27/12/2023 Tin tức
Cùng chuyên mục
Đánh giá hiệu quả điều trị đau bằng phương pháp châm tả bằng kim tiêm kết hợp hút giảm áp tại bệnh viện PHCN tỉnh Lào Cai
07:25 | 20/10/2025 Bài báo Khoa học
Chảy máu nướu ( máu chân răng): Một số nguyên nhân và giải pháp khắc phục
21:12 | 09/10/2025 Bài báo Khoa học
Tổng quan hiệu quả điều trị đau thần kinh tọa bằng các phương pháp y học cổ truyền
15:54 | 03/10/2025 Bài báo Khoa học
Bệnh Quai bị: Tổng quan về virus, dịch tễ học, lâm sàng và chiến lược phòng ngừa
09:14 | 03/10/2025 Bài báo Khoa học
Các tin khác
Biến chứng y khoa từ việc tẩy nốt ruồi tại cơ sở thẩm mỹ không được cấp phép: Phân tích rủi ro và khuyến nghị
09:12 | 03/10/2025 Bài báo Khoa học
TỪ DI SẢN VĂN HÓA ĐẾN SỨ MỆNH CHĂM SÓC SỨC KHỎE CỘNG ĐỒNG
13:10 | 19/08/2025 Bài báo Khoa học
Tác động của mạng xã hội đến sức khỏe thể chất, tinh thần và nhận thức bản thân ở nữ giới từ 18–22 tuổi tại Việt Nam
09:03 | 28/07/2025 Bài báo Khoa học
Khảo sát mối liên hệ giữa thể bệnh Guilain - Barré và các hội chứng bệnh cảnh Nuy chứng hướng thượng của Y học cổ truyền
10:04 | 02/07/2025 Bài báo Khoa học
Bước đầu tìm hiểu mối liên hệ “Thời bệnh” Y học cổ truyền và bệnh truyền nhiễm
10:00 | 02/07/2025 Bài báo Khoa học
Kinh nghiệm chẩn đoán bệnh trĩ trong hội chứng bệnh cảnh hậu môn trĩ ngoại khoa Y học cổ truyền
09:57 | 02/07/2025 Bài báo Khoa học
Tế bào T qua trung gian Cytokine yếu tố chính trong á sừng do viêm da dị ứng
15:00 | 25/06/2025 Bài báo Khoa học
Kinh nghiệm chẩn đoán chứng “Năng thương” Y học cổ truyền tại bệnh viện 30.4 Bộ Công an
08:42 | 24/06/2025 Bài báo Khoa học
Phân loại viêm mũi xoang- chứng Tỵ uyên theo học thuyết Thương hàn luận của Y học cổ truyền
19:08 | 23/06/2025 Bài báo Khoa học
Kinh nghiệm điều trị tiền mãn kinh bằng thuốc YHCT tại Bệnh viên 30.4 - Bộ Công an
19:08 | 23/06/2025 Bài báo Khoa học