Determinants of Knowledge and Practices Regarding Nutritional Anemia Prevention in Pregnant Women of the Khmer Ethnic Group

Các yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành về phòng chống thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ có thai người dân tộc Khmer

Một trong những vấn đề sức khỏe ở phụ nữ có thai là tình trạng thiếu máu, trong đó thiếu máu dinh dưỡng là phổ biến nhất và quan trọng hơn cả đối với sức khỏe cộng đồng{[21]. Thiếu máu ở phụ nữ mang thai là vấn đề lớn về sức khỏe cộng đồng tại nhiều quốc gia. Tuy nhiên, vẫn còn những khó khăn trong vấn đề chăm sóc, phòng chống thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ có thai tại các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, đời sống kinh tế, xã hội còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí còn thấp, phong tục tập quán lạc hậu. Do đó để cải thiện được việc chăm sóc sức khoẻ ở phụ nữ có thai thì việc có được những thông tin về tình hình sức khỏe, trong đó có số liệu về kiến thức, thực hành về phòng chống thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ có thai người dân tộc Khmer trong địa bàn quản lý là hết sức cần thiết.

Từ khóa: Thiếu máu; Thai phụ.

DOI: https://doi.org/10.63472/sucv.06202514

Summary

One of the major health issues among pregnant women is anemia, with nutritional anemia being the most common and most critical form in terms of public health impact. Anemia during pregnancy remains a significant public health concern in many countries. However, efforts to care for and prevent nutritional anemia among pregnant women still face numerous challenges, particularly in rural, mountainous, and remote areas, as well as regions inhabited by ethnic minorities, where economic and social conditions are difficult, educational levels are low, and outdated customs and practices persist. Therefore, to improve maternal health care, it is essential to gather accurate information on the health status of pregnant women, including data on their knowledge and practices related to the prevention of nutritional anemia—especially among Khmer ethnic women within the local healthcare system.

Keywords: Anemia; Pregnant women.

Ngày nhận bài: 03/5/2025

Ngày phản biện khoa học: 6/5/2025

Ngày duyệt đăng: 23/05/2025

Bài đăng trên Tạp chí in Sức Khỏe Việt số Tháng 5+6/2025

Mô tả các yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành về phòng chống thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ có thai người dân tộc Khmer. Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả nghiên cứu trên 316 đối tượng cho thấy: Có mối liên quan giữa tuổi, trình độ học vấn, kinh tế gia đình, nghề nghiệp của đối tượng với kiến thức (p<0,05)

Có mối liên quan giữa kinh tế gia đình của đối tượng với thực hành (p<0,05).

Có mối liên quan giữa kiến thức và thực hành về phòng chống thiếu máu dinh dưỡng của đối tượng (p < 0,05).

Đặt vấn đề

Một trong những vấn đề sức khỏe ở phụ nữ có thai là tình trạng thiếu máu, trong đó thiếu máu dinh dưỡng là phổ biến nhất và quan trọng hơn cả đối với sức khỏe cộng đồng{[21]. Thiếu máu ở phụ nữ mang thai là vấn đề lớn về sức khỏe cộng đồng tại nhiều quốc gia. Tuy nhiên, vẫn còn những khó khăn trong vấn đề chăm sóc, phòng chống thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ có thai tại các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, đời sống kinh tế, xã hội còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí còn thấp, phong tục tập quán lạc hậu. Do đó để cải thiện được việc chăm sóc sức khoẻ ở phụ nữ có thai thì việc có được những thông tin về tình hình sức khỏe, trong đó có số liệu về kiến thức, thực hành về phòng chống thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ có thai người dân tộc Khmer trong địa bàn quản lý là hết sức cần thiết[13].

Tổng quan y văn

1. Tổng quan về thiếu máu dinh dưỡng.

1.1. Một số khái niệm về thiếu máu dinh dưỡng.

Thiếu máu: Thiếu máu được định nghĩa là sự giảm nồng độ hemoglobin trong máu ngoại vi xuống dưới phạm vi tham chiếu cho độ tuổi và giới tính của một cá nhân, có thể do di truyền hoặc mắc phải và là kết quả của sự mất cân bằng giữa sản xuất hồng cầu và mất hồng cầu.[19]

Thiếu máu dinh dưỡng: Thiếu máu dinh dưỡng là tình trạng bệnh lý xảy ra khi hàm lượng hemoglobin (Hb) trong máu xuống thấp hơn bình thường do thiếu một hay nhiều chất dinh dưỡng cần thiết cho quá trình tạo máu bất kể lý do gì. Nồng độ Hb dưới 120 g/L ở PNTSS và dưới 110 g/L ở PNCT được coi là thiếu máu.[7]

Tình trạng sắt cạn kiệt: Tình trạng sắt cạn kiệt xảy ra khi sắt dự trữ trong cơ thể không còn được biểu hiện bằng nồng độ Ferritin huyết thanh thấp hơn 15µg/L đối với phụ nữ tuổi sinh sản . [6]

Tình trạng thiếu sắt: Thiếu sắt là sự suy giảm lượng sắt toàn cơ thể, đặc biệt là kho dự trữ sắt của đại thực bào và tế bào gan. Vì lượng sắt lớn nhất được tiêu thụ để tổng hợp hemoglobin (Hb) để tạo ra 200 tỷ hồng cầu mỗi ngày, thiếu máu là dấu hiệu rõ ràng hơn của tình trạng thiếu sắt, và thiếu máu do thiếu sắt thường được coi là đồng nghĩa với thiếu sắt.[15]

Thiếu máu do thiếu sắt: Thiếu máu thiếu sắt là tình trạng thiếu máu xảy ra do cơ thể không đủ sắt đáp ứng nhu cầu tạo hồng cầu vì những nguyên nhân khác nhau: Không cung cấp đủ nhu cầu sắt, mất sắt do mất máu mạn tính, rối loạn chuyển hoá sắt bẩm sinh.[14]

Tình trạng quá tải sắt: Tình trạng thừa sắt hay còn gọi là bệnh huyết sắc tố là sự tích tụ sắt trong cơ thể do bất kỳ nguyên nhân nào. Các nguyên nhân quan trọng nhất là bệnh huyết sắc tố di truyền, một rối loạn di truyền và tình trạng thừa sắt do truyền máu, có thể do truyền máu nhiều lần.[17]

1.2. Phương pháp đánh giá tình trạng thiếu máu dinh dưỡng.

Đánh giá trên cá thể:

Bảng 1.1 Nồng độ Hemoglobin của WHO được sử dụng để chẩn đoán thiếu máu ( g / L ) [20]

Dân số

Không thiếu máu

Thiếu máu

Nhẹ

Trung bình

Nghiêm trọng

Trẻ em ( 6-59 tháng tuổi)

110 trở lên

100-109

70-99

Dưới 70

Trẻ em ( 5-11 tuổi)

115 trở lên

110-114

80-109

Dưới 80

Trẻ em ( 12-14 tuổi)

120 trở lên

110-119

80-109

Dưới 80

Phụ nữ không mang thai ( 15 tuổi trở lên)

120 trở lên

110-119

80-109

Dưới 80

Phụ nữ mang thai

110 trở lên

100-109

70-99

Dưới 70

Nam ( 15 tuổi trở lên)

130 trở lên

110-129

80-109

Dưới 80

1.3. Chẩn đoán thiếu máu dinh dưỡng.

Biểu hiện lâm sàng của thiếu máu thường ít và âm thầm. Người bị thiếu máu có thể không tự nhận ra bệnh, điều đó gây khó khăn trong phòng chống bệnh này ở cộng đồng. Biểu hiện của thiếu máu nhẹ là: mệt mỏi, mất ngủ, kém tập trung.[12]

Ở phụ nữ có thai: Phổ biến là da xanh, niêm mạc nhợt (niêm mạc mắt, lợi), móng tay khum hình thìa, lòng bàn tay nhợt nhạt, đầu lưỡi có một đám những hạt sắc tố đỏ sẫm, mệt mỏi, khi thiếu máu nặng thường có dấu hiệu chóng mặt, tim đập mạnh, khó thở khi lao động gắng sức.[12]

Xét nghiệm thường dùng để chẩn đoán thiếu máu là định lượng Hemoglobin (Hb). Trẻ em dưới 5 tuổi và phụ nữ mang thai nếu Hb<11g/L và phụ nữ không có thai nếu Hb<12g/L được xác định là thiếu máu. [12]

1.4. Hậu quả của thiếu máu dinh dưỡng.

Ảnh hưởng tới khả năng lao động

Thiếu máu gây nên tình trạng thiếu ô xy ở các tổ chức, đặc biệt ở não, ở tim và ảnh hưởng đến hoạt động của các cơ do đó làm giảm khả năng lao động ở những người bị thiếu máu. Khi tình trạng thiếu máu được cải thiện thì năng suất lao động cũng tăng theo.[12]

Ảnh hưởng tới năng lực trí tuệ.

Người bị thiếu máu thường dễ bị mất ngủ, mệt mỏi, kém tập trung, dễ bị kích thích, khi già dễ bị mắc bệnh mất trí nhớ.[12]

Ảnh hưởng tới thai sản:

Phụ nữ bị thiếu máu khi có thai dễ bị sinh non, tăng tỷ lệ mắc bệnh và tử vong của mẹ và con khi sinh nở, dễ bị chảy máu và bị mắc các bệnh nhiễm trùng ở thời kỳ hậu sản. Vì vậy người ta coi thiếu máu dinh dưỡng trong thời kỳ mang thai là một đe dọa sản khoa.[12]

Giảm sức đề kháng của cơ thể

Phụ nữ bị thiếu máu dinh dưỡng dễ bị ốm, dễ bị mắc các bệnh nhiễm trùng.[12]

Ảnh hưởng tới sự phát triển của trẻ

Thiếu máu do thiếu sắt gây ảnh hưởng tới sự phát triển trí tuệ và vận động của trẻ, làm tăng tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong. Một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ em là bị suy dinh dưỡng ngay trong thời kỳ bào thai. Nguyên nhân này thường do thiếu hụt các vi chất dinh dưỡng, đặc biệt là thiếu sắt, làm giảm phát triển chiều cao, cân nặng và chức năng của hệ thống miễn dịch. Hậu quả gián tiếp của thiếu máu là làm giảm năng suất lao động và ảnh hưởng không tốt tới sự phát triển trí tuệ, vận động, giảm các chỉ số phát triển, chỉ số thông minh của trẻ em lứa tuổi tiền học đường và học đường. Thiếu máu do thiếu sắt ảnh hưởng tới trẻ từ 6 tới 24 tháng tuổi, làm giảm khả năng tập trung, giảm hoạt động thể lực, tăng sự căng thẳng và mệt mỏi. Tùy vào độ tuổi khi xuất hiện thiếu máu và mức độ thiếu máu, uống viên sắt có thể cải thiện tình trạng này, tuy nhiên một số hậu quả trí tuệ cũng như nhận thức xã hội có thể sẽ tồn tại mãi mãi.[12]

1.5. Yếu tố liên quan đến phòng chống thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ có thai:

Tuổi của PNMT: Nhiều nghiên cứu đã chứng minh tuổi của người mẹ khi mang thai có liên quan đến tình trạng thiếu máu. Nghiên cứu của Phạm Thị Đan Thanh tại Bạc Liêu (2010) cũng cho thấy PNMT trên 35 tuổi có nguy cơ thiếu máu cao gấp 3,6 lần so với PNMT các nhóm tuổi còn lại . Tác giả Lê Thị Thùy Trang cũng đã tiến hành nghiên cứu tại huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình (2016), kết quả cũng cho thấy PNMT trên 35 tuổi có nguy cơ thiếu máu cao gấp 2 lần so với PNMT ≤ 35 tuổi .[19],[21]

Tuổi thai: Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Thanh cho thấy PNCT có tuổi thai : 3 tháng đầu, 3 tháng giữa, 3 tháng cuối, có tỷ lệ kiến thức đạt tương ứng là (44,9%;50%;50%), tỷ lệ chưa đạt tương ứng là (55,1%, 50%, 50% ), và thực hành đạt tương ứng là ( 29,6%;31,7%;31,1%), tỷ lệ thực hành chưa đạt là ( 70,4%, 68,3%, 68,9 %).[18]

Trình độ văn hoá: phản ánh sự hiểu biết của đối tượng về nhiều vấn đề trong đó có cả các vấn đề dinh dưỡng trong thời kỳ mang thai, ngoài ra còn liên quan đến khả năng tìm hiểu thông tin của các đối tượng. Các đối tượng có trình độ càng cao thì việc hiểu biết có thể sẽ nhiều hơn và việc tìm kiếm các thông tin về vấn đề mang thai cũng dễ dàng hơn. Nhận thấy các đối tượng nghiên cứu có trình độ không cao, tỷ lệ đối tượng có trình độ tiểu học và THCS là cao nhất chiếm đến 78,9%, các đối tượng THPT là 20,6%, trên THPT là 2,0% và tỷ lệ mù chữ là 0,6%. Đo các đối tượng chủ yếu sống bằng nông nghiệp nên có trình độ tượng đối thấp.[18]

Về nghề nghiệp nhận thấy các đối tượng có phân bố nghề khá đều, với tỷ lệ đối tượng làm nghề buôn bán là 19,4%, nông dân chiếm tỷ lệ cao nhất với 40,0%, công nhân là 14,7%, cán bộ CNVC là 6,6% và nội trợ là 20,3%.[18]

Kinh tế gia đình cũng khá quan trọng, đảm bảo cho sự đáp ứng các nhu cầu cần thiết cho phụ nữ mang thai, nhận thấy có đến 86,9% đối tượng có kinh tế gia đình không nghèo và còn lại 13,1% đối tượng là nghèo và cận nghèo. Các đối tượng có kinh tế khó khăn có liên quan đến chất lượng cuộc sống, từ đó liên quan đến chất lượng thai sinh, trong đó có tình trạng thiếu máu thiếu sắt.[18]

1.6. Tình hình nghiên cứu thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ có thai người dân tộc thiểu số trên thế giới và Việt Nam.

1.6.1. Trên thế giới:

Theo nghiên cứu của Xiuli Zhang và các cộng sự năm 2017 về phân bố huyết sắc tố và tỷ lệ thiếu máu ở 10 dân tộc thiểu số ở Trung Quốc cho thấy tỷ lệ thiếu máu ở Tây Tạng, Chuang và Uygur là rất cao (lần lượt là 46,9%, 25,4% và 21,4%), trong khi tỷ lệ mắc bệnh ở Yi và Hui rất thấp, lần lượt là 10,6% và 13,8%. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng tỷ lệ thiếu máu cao rõ rệt của người Tây Tạng có thể liên quan đến môi trường thiếu oxy của vùng cao nguyên Tây Tạng. Tỷ lệ thiếu máu của nhóm Yi (10,6%) thấp nhất trong mười dân tộc. Lý do có thể là do chế độ ăn uống cân bằng của Yi bao gồm ngô, thịt bò và thịt cừu, rau và trái cây có lợi cho việc hấp thụ sắt và vitamin. Người dân Hui rất thích thịt bò và thịt cừu, và họ sống ở những vùng có giao thông thuận tiện, kinh tế cao nên họ ít bị thiếu máu do thiếu sắt.[22]

Nghiên cứu của D.Sharma và các cộng sự cho thấy tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ có thai dân tộc Dalit là 22,4%, dân tộc Janajati có hoàn cảnh khó khăn là 42,9% và dân tộc nhóm thượng lưu là 15,4%. Nghiên cứu cũng cho thấy tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ mang thai ở vùng núi cao, miền trung tây Nepal thấp hơn so với phụ nữ mang thai trung bình ở Nepal. Tuổi và độ tuổi của phụ nữ được coi là những yếu tố dự báo đáng kể mức hemoglobin. Tỷ lệ thiếu máu thay đổi theo dân tộc, tuổi tác và lứa tuổi. Sự xuất hiện của thiếu máu có liên quan đến dân tộc trong dân số nghiên cứu. Những phụ nữ Janajati có hoàn cảnh khó khăn có nhiều khả năng bị thiếu máu hơn so với nhóm thượng lưu. Nghiên cứu chỉ ra nhu cầu của một cuộc nghiên cứu rộng rãi dựa trên cộng đồng ở những vùng núi hẻo lánh, để xác định chính xác mức độ thiếu máu và mối liên quan với các đặc điểm của phụ nữ.[16]

Nghiên cứu của Wu Y và các cộng sự tại Tây Nam Trung Quốc cho thấy tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ dân tộc thiểu số trong độ tuổi sinh sản năm 2014–2018 lần lượt là : Tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ Yi (20,4%), Hani (26,6%), Miao (23,2%) và các dân tộc thiểu số khác (22,9%) cao hơn đáng kể so với phụ nữ dân tộc Hán (17,0%). Nghiên cứu cũng cho thấy tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản đã giảm đáng kể từ 23,0% năm 2014 xuống 16,4% năm 2018. Trong những năm gần đây, tình trạng thiếu máu của phụ nữ dân tộc thiểu số ở Tây Nam Trung Quốc đã được cải thiện rõ ràng, điều này có thể liên quan đến phát triển kinh tế, nâng cao mức sống của người dân và cải thiện tình trạng dinh dưỡng của phụ nữ trong độ tuổi sinh sản ở Trung Quốc.[23]

Nghiên cứu của Tebogo T Leepile và các cộng sự tại vùng nông thôn Botswana cho thấy tỷ lệ phụ nữ dân tộc San có thai bị thiếu máu cao hơn (26%) so với phụ nữ không mang thai (12%). Tỷ lệ hiện mắc rất khác nhau tùy thuộc vào việc Hb được điều chỉnh theo độ cao, dân tộc và hút thuốc hay được điều chỉnh cho tất cả các yếu tố kết hợp . Nhìn chung, tỷ lệ thiếu máu của phụ nữ ở khu vực ven đô thị cao hơn so với khu vực nông thôn (20% so với 11%). Nghiên cứu cũng cho thấy rằng thiếu máu dao động rộng rãi tùy thuộc vào các yếu tố điều chỉnh Hb, với 6–26% ở phụ nữ không mang thai, 22–30% ở phụ nữ có thai và 35–63% ở trẻ em. Sau những điều chỉnh về dân tộc, tỷ lệ thiếu máu đã giảm đáng kể (phụ nữ: từ 22% xuống 7%; trẻ em: từ 63% xuống 35%).[18]

1.6.2. Việt Nam:

Nghiên cứu của Lê Thị Hương và Trần Thị Hồng Vân về tình trạng thiếu năng lượng trường diễn và thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ 20–35 tuổi người dân tộc Tày tại huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên năm 2017 được tiến hành trên 585 đối tượng cho thấy tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn chung là 16,4% trong đó tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn mức độ nhẹ, trung bình lần lượt là: 13,2% và 3,2%. Thiếu máu chung chiếm tỷ lệ 25,5% trong đó tỷ lệ thiếu máu mức độ nhẹ 21,7%; trung bình là 3,8%. Thiếu máu do thiếu sắt chiếm tỷ lệ cao 45,0%. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn và thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ người dân tộc Tày ở mức tương đối cao.[11]

Nghiên cứu của Đinh Khắc Dũng và các cộng sự đánh giá tình trạng dinh dưỡng và thiếu máu thiết sắt của phụ nữ tuổi sinh sản tại xã miền núi dân tộc thiểu số Khe Mo huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên cho thấy tình trạng thiếu máu, thiếu sắt, tỷ lệ thiếu máu chung là 36,7% (cao nhất là ở nhóm phụ nữ dân tộc Sán Chay – 39,3%, trong đó thiếu máu mức độ nhẹ là 89,5%, thiếu máu mức độ trung bình là 8,1%, thiếu máu mức độ nặng là 2,4%; nồng độ Hb ở mức đe dọa thiếu máu là 29,6%; tỷ lệ phụ nữ có dự trữ sắt thấp là 65,1%, trong đó mức dự trữ sắt cạn kiệt chiếm 39,3%, mức dự trữ sắt thấp chiếm 11,6%, mức dự trữ sắt khá thấp chiếm 49,1%. Trong nghiên cứu này tác giả chưa tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tình trạng dinh dưỡng và thiếu, máu sắt giữa các phụ nữ các dân tộc Nùng, Sán Chay, Kinh. [4]

Nghiên cứu của Đoàn Thị Thuỳ Dương và các cộng sự về Thực trạng thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ có thai người dân tộc M’Nông tại huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông năm 2019 cho thấy tỷ lệ thiếu máu ở PNCT người M’Nông là 37,9%, thiếu máu thiếu sắt là 33,8%. Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt chiếm 89,0% trong số PNCT thiếu máu. Thiếu máu thiếu sắt tăng theo các giai đoạn của thai kỳ, tỷ lệ ở 3 tháng đầu, giữa và cuối theo thứ tự là 12,2%, 32,7% và 55,1%. Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt rất cao (57,1%) ở phụ nữ có từ 3 con trở lên. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng thiếu sắt là nguyên nhân chính gây thiếu máu ở PNCT M’Nông, cao nhất ở 3 tháng cuối của kỳ thai và ở các bà mẹ có từ 3 con trở lên. Can thiệp bổ sung sắt cho PNCT, đặc biệt là các PNCT từ lần thứ 3 cần được triển khai ở địa bàn nghiên cứu.[5]

Tác giả Nguyễn Quang Dũng và Trần Thuý Nga (2015) nghiên cứu về thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ tuổi sinh sản người H’mông tại một số xã thuộc huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng cho thấy tỷ lệ thiếu máu là 31,9% và có xu hướng giảm dần theo nhóm tuổi. Tỷ lệ thiếu sắt ở nhóm 15 - 24,99 tuổi là 21,2%, nhóm 25 - 34,99 tuổi là 14,8% và nhóm 35 - 49,99 tuổi là 4,3%. Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt chung là 13,9%, trong ñó cao nhất ở nhóm 15 - 24,99 tuổi: 17,9%. Tỷ lệ thiếu máu nhưng không thiếu sắt là 18,8%. Trên phụ nữ tuổi sinh ñẻ người H’Mông, thiếu máu chiếm tỷ lệ cao, tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt ở nhóm trẻ tuổi có xu hướng cao hơn so với nhóm tuổi lớn hơn. [2]

Nghiên cứu của tác giả Huỳnh Nam Phương (2011) về tiếp thị xã hội với việc bổ sung sắt cho phụ nữ có thai dân tộc Mường ở tỉnh Hoà Bình cho thấy phụ nữ có thai dân tộc Mường ở Hoà Bình có kiến thức tương đối tốt về các điều kiện chăm sóc thai nhưng thực hành không đầy đủ. Có những hiểu biết cơ bản về phòng chống thiếu máu thiếu sắt (61,8% biết phụ nữ có thai và cho con bú là đối tượng hay mắc thiếu máu, 83,6% biết một triệu chứng đúng của thiếu máu, 87,0% biết ít nhất một ảnh hưởng của thiếu máu, 91,6% biết ít nhất một biện pháp phòng chống thiếu máu), tác dụng của viên sắt (có 89,9% biết về viên sắt và 79,8% biết tất cả phụ nữ có thai nên uống viên sắt) nhưng chỉ có 62,2% uống viên sắt và số uống hàng ngày chỉ chiếm 72,3%. Một số yếu tố ảnh hưởng đến uống viên sắt bổ sung đúng là nguồn thuốc có thường xuyên (ảnh hưởng đến 97% đối tượng), thuốc dễ uống (40%), giá cả phù hợp (60%), ảnh hưởng tốt đến sức khỏe (47%) và ít tác dụng phụ (24%).[9]

Nghiên cứu của Nguyễn Quang Dũng và các cộng sự (2017) về tình trạng thiếu máu ở phụ nữ tuổi sinh sản người Dao tại 4 xã thuộc huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng cho thấy tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ tuổi sinh sản người Dao tại 4 xã thuộc huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng là 31,3% và có xu hướng giảm dần theo nhóm tuổi. Tỷ lệ thiếu sắt ở nhóm 15-24 tuổi là 9,4%, nhóm 25-34 tuổi là 5,9% và nhóm 35-49 tuổi là 8,3%. Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt chung là 4,2%; trong đó cao nhất ở nhóm 15-24 tuổi: 6,3%. Tỷ lệ thiếu máu nhưng không thiếu sắt là 27,1%. Trên phụ nữ tuổi sinh sản người Dao, thiếu máu chiếm tỷ lệ cao.[3]

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu thiết kế mô tả cắt ngang. Thực hiện trên 316 phụ nữ có thai người dân tộc Khmer đến khám tại Bệnh viện Sản Nhi tỉnh Trà Vinh từ 04 - 06/2021. Với tiêu chí chọn vào: phụ nữ có thai là người dân tộc Khmer; Tự nguyện tham gia nghiên cứu; phụ nữ có thai hoàn toàn tỉnh táo, có đủ năng lực hành vi trả lời bằng câu hỏi khảo sát; Tiêu chí loại ra: Phụ nữ có thai đang trong giai đoạn chuyển dạ; Phụ nữ có thai bị mắc các bệnh về máu.

Chọn mẫu bằng kỹ thuật chọn mẫu thuận tiện cho đến khi đủ cỡ mẫu.

Quy trình thu thập số liệu gồm 3 bước: Bước 1: Liên hệ Bệnh viện xin phép thu thập số liệu. Bước Bước 2: Lựa chọn các đối tượng nghiên cứu phù hợp với tiêu chí chọn mẫu. Bước 3: Phỏng vấn đối tượng bằng bộ câu hỏi.

Nhập liệu bằng phần mềm Epidata, xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 25.0. Thống kê mô tả dùng tần số và tỷ lệ phần trăm.

Kết quả nghiên cứu

Tiến hành nghiên cứu kiến thức, thực hành về phòng chống thiếu máu dinh dưỡng và các yếu tố liên quan ở 316 phụ nữ mang thai tại Bệnh viện Sản Nhi Trà Vinh, kết quả như sau:

4.1 Các yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành phòng chống thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ có thai người dân tộc Khmer.

Tuổi: Trong đó các đối tượng ≤ 35 tuổi có kiến thức cao gấp 0,749 lần so với các đối tượng >35 tuổi. Qua kết quả này cho thấy các đồi tượng ≤ 35 có kiến thức cao hơn so với các đối tượng > 35 tuổi. Kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Lệ và Trương Quang Vinh cho thấy tỷ lệ tuổi người mẹ >35 tuổi nguy cơ thiếu máu thiếu sắt tăng gấp 2,5 lần nhóm 20-35 tuổi[12]. Kết quả của tác giả trên cao hơn so với nghiên cứu này. Nhận thấy các đối tượng mang thai trong độ tuổi sinh sản tốt nhất là khá cao, điều này cũng phù hợp với tình hình chung của nước ta, tại độ tuổi này việc mang thai là phù hợp nhất, vì các yếu tố tâm sinh lý của người phụ nữ là tốt nhất để thực hiện thiên chức của người mẹ. Sở dĩ có kết quả này là do ĐTNC có trình độ học vấn cao hơn, có tiếp nhận được các nguồn thông tin kiến thức qua nhiều kênh khác nhau.

Kinh tế gia đình: Trong đó các đối tượng không nghèo có kiến thức cao gấp 6,731 lần so với các đối tượng nghèo và cận nghèo, đồng thời có thực hành đạt cao gấp 2,126 lần so với các đối tượng nghèo và cận nghèo. Kết quả nghiên cứu của tác giả Đặng Hải Đăng và các cộng sự cho thấy kinh tế gia đình thuộc hộ cận nghèo và trung bình có tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt là 33,33% và 26,98% cao hơn nhóm thuộc khá giàu là 13,35%[6]. Kết quả của tác giả trên tương đương so với nghiên cứu này. Kinh tế gia đình cũng khá quan trọng, đảm bảo cho sự đáp ứng các nhu cầu cần thiết cho phụ nữ mang thai. Các đối tượng có kinh tế khó khăn có liên quan đến chất lượng cuộc sống, từ đó liên quan đến chất lượng thai sinh, trong đó có tình trạng thiếu máu thiếu sắt. Sở dĩ có kết quả này là vì các đối tượng nghèo đa số các đối tượng nghèo sống chủ yếu bằng nông nghiệp sẽ khó có thể tiếp cận các thông tin về kiến thức, thực hành về phòng chống thiếu máu dinh dưỡng.

Qua kết quả nghiên cứu cho thấy kiến thức là vấn đề quan trọng nhất liên quan đến thực hành của đối tượng. Mà cụ thể có mối liên quan giữa trình độ học vấn của đối tượng với kiến thức và thực hành của đối tượng.

Trong đó các đối tượng có trình độ ≥ THPT có kiến thức cao gấp 0,14 lần, đồng thời có thực hành đạt cao gấp 1,3 lần so với các đối tượng có kiến thức dưới THPT. Kết quả của nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Thanh với p< 0,001 có kết quả mối liên quan giữa trình độ học vấn với kiến thức, thực hành phòng chống thiếu máu dinh dưỡng. Kết quả cho thấy các đối tượng có trình độ ≥ THPT có kiến thức cao gấp 5,071 lần, đồng thời có thực hành đạt cao gấp 4,556 lần so với các đối tượng có kiến thức dưới THPT. Kết quả của tác giả trên cao hơn so với nghiên cứu của này. Trình độ phản ánh sự hiểu biết của đối tượng về nhiều vấn đề trong đó có cả các vấn đề dinh dưỡng trong thời kỳ mang thai, ngoài ra còn liên quan đến khả năng tìm hiểu thông tin của các đối tượng. Vì các đối tượng có học vấn trên THPT sẽ được tiếp cận nhiều hơn về công nghệ, về các kênh thông tin trên mạng Internet nên sẽ có kiến thức, thực hành cao hơn những người có trình độ học vấn dưới THPT.[10]

Nghề nghiệp các đối tượng là nông dân có kiến thức thấp hơn 1,3 lần so với các đối tượng khác. Kết quả của tác giả Trần Văn Vũ và Võ Minh Tuấn cho thấy có mối liên quan giữa nghề nghiệp và tình trạng thiếu máu thiếu sắt. Nhóm lao động chân tay làm tăng nguy cơ thiếu máu thiếu sắt lên gấp 2,7 lần so với nhóm nội trợ, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (OR = 2,72; KTC: 1,09 – 6,77; P = 0,031)[11]. Kết quả của tác giả trên cao hơn so với nghiên cứu này. Nghề nghệp có thể liên quan đến vấn đề dinh dưỡng của đối tượng từ đó liên quan đến tình trạng thiếu các chất dinh dưỡng thiết yếu của đối tượng đang mang thai, đồng thời một số ngành nghề còn có liên quan đến đến thai nhi khi phải tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ. Vì vậy nếu các đối tượng nếu đang mang thai cần tìm hiểu các yếu tố về môi trường làm việc có liên quan đến thai nhi hay không để có các biện pháp phù hợp phòng tránh. Sở dĩ có kết quả này là do các đối tượng nông dân đa số kinh tế của ĐTNC phụ thuộc vào nông nghiệp là chính, và đa số kinh tế của ĐTNC trong nhóm nghèo và cận nghèo nên ĐTNC sẽ khó có thể tiếp cận được những thông tin về các kiến thức phòng chống thiếu máu dinh dưỡng.

Ngoài ra cũng ghi nhận có mối liên quan giữa kiến thức và thực hành của đối tượng, trong đó các đối tượng có kiến thức trung bình thì có thực hành trung bình cao gấp 14,388 lần so với các đối tượng có kiến thức yếu. Kết quả của nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Thanh cũng ghi nhận có mối liên quan giữa kiến thức và thực hành của đối tượng, trong đó các đối tượng có kiến thức đạt thì có thực hành đạt cao gấp 3,957 lần so với các đối tượng có kiến thức chưa đạt[10]. Tỷ lệ các đối tượng có kiến thức đạt có thực hành đạt thấp hơn so với nghiên cứu này.

Từ kết quả trên cho thấy kiến thức chính là mấu chốt dẫn đến thực hành đạt của các đối tượng, vì vậy việc bổ sung kiến thức cho các đối tượng là rất cần thiết trong tình trạng hiện tại.

KẾT LUẬN

Kết quả nghiên cứu trên 316 đối tượng cho thấy:Có mối liên quan giữa tuổi, trình độ học vấn, kinh tế gia đình, nghề nghiệp của đối tượng với kiến thức (p<0,05); Có mối liên quan giữa kinh tế gia đình của đối tượng với thực hành (p<0,05); Có mối liên quan giữa kiến thức và thực hành về phòng chống thiếu máu dinh dưỡng của đối tượng (p < 0,05).

Qua kết quả nghiên cứu này ghi nhận kiến thức là vấn đề quan trọng nhất liên quan đến thực hành của đối tượng.

Tài liệu tham khảo:

Tiếng Việt:

1. Lê Minh Chính (2010), "Thực trạng thiếu máu ở phụ nữ Sán Dìu trong thời kỳ mang thai tại huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên và hiệu quả của biện pháp can thiệp", Luận án Tiến sĩ Y học, tr. 9.

2. Nguyễn Quang Dũng, Trần Thuý Nga (2015), "Thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ tuổi sinh đẻ người H’mông tại một số xã thuộc huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng.", Tạp chí nghiên cứu Y học, tr. 107-113.

3. Nguyễn Quang Dũng, Nguyễn Văn Điệp, Lê Danh Tuyên (2017), "Tình trạng thiếu máu ở phụ nữ tuổi sinh đẻ người Dao tại 4 xã thuộc huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng", Tạp chí Y học dự phòng. Tập 27 (2), tr.100.

4. Nguyễn Thị Hiếu (2006), "Đánh giá tình trạng dinh dưỡng và thiếu máu thiết sắt của phụ nữ tuổi sinh đẻ tại xã miền núi dân tộc thiểu số Khe Mo huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên", Tạp chí Y học thực hành. 1/2008.

5. Nguyễn Thị Kim Lệ, Đoàn Thị Thuỳ Dương, Đinh Thị Phương Hoà (2019), "Thực trạng thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ có thai người dân tộc M’Nông tại huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông năm 2019", Đại học Y tế công cộng, tr. 46-53.

6. Hồ Thu Mai (2013), "Hiệu quả của truyền thông giáo dục và bổ sung viên sắt folic đối với tình trạng dinh dưỡng và thiếu máu của phụ nữ 20-35 tuổi tại 3 xã huyện Tân lạc tỉnh Hòa Bình", tr. 9 và 61.

7. Hoàng Thị Thu Nga (2017), "Hiệu quả bổ sung thực phẩm cho phụ nữ trước và trong khi có thai tới tình trạng dinh dưỡng, thiếu máu của phụ nữ có thai và trẻ 24 tuần tuổi", Luận án TS Dinh dưỡng, Viện dinh dưỡng, tr. 13.

8. Ngô Thị Kim Phụng, Phạm Thị Đan Thanh (2011), "Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt ở thai phụ ba tháng đầu thai kỳ tại Bạc Liêu ", Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh. Tập 15(1), tr. 3.

9. Huỳnh Nam Phương (2011), "Tiếp thị xã hội với việc bổ sung sắt cho phụ nữ có thai dân tộc Mường ở tỉnh Hoà Bình", Luận án Tiến sĩ Dinh dưỡng, Viện Dinh dưỡng quốc gia, tr. 65 và 127.

10. Nguyễn Thị Thanh (2019), "Kiến thức, thực hành về phòng chống thiếu máu thiếu sắt và các yếu tố liên quan ở phụ nữ mang thai tại huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang năm 2019", tr. 28-52.

11. Trần Thị Hồng Vân (2017), "Tình trạng thiếu năng lượng trường diễn và thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ 20–35 tuổi người dân tộc Tày tại huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên năm 2017", tr. 65.

12. Viện dinh dưỡng (2014), "Thiếu máu dinh dưỡng ở bà mẹ và trẻ em".

13. Viện dinh dưỡng quốc gia (2014), "Tỉ lệ thiếu máu ở Phụ nữ có thai theo tuổi thai".

14. Viện huyết học truyền máu trung ương (2020), "Thiếu máu thiếu sắt: Nguyên nhân, triệu chứng và điều trị".

Tiếng Anh:

15. Clara Camaschella (2019), "Iron deficiency", Blood and Bond Marrow Pathology,second. 133, tr. 30-39.

16. D. Sharma và các cộng sự (2020), "Hemoglobin levels and anemia evaluation among pregnant women in the remote and rural high lands of mid-western Nepal: a hospital based study", BMC Pregnancy Childbirth. 20(1), tr. 182.

17. Robert C Hider and Xiaole Kong (2013), "Chapter 8. Iron: Effect of Overload and Deficiency", Astrid Sigel, Helmut Sigel and Roland K. O. Sigel (ed.).

18. Tebogo.T. Leepile và các cộng sự (2021), "Anemia Prevalence and Anthropometric Status of Indigenous Women and Young Children in Rural Botswana: The San People", Nutrients. 13(4).

19. Wendy Erber (2011), "Investigation and classification of anemia", Blood and Bond Marrow Pathology,second, tr. 105-114.

20. WHO (2011), "Haemoglobin concentrations for the diagnosis of anaemia and assessment of severity ", tr. 3.

21. WHO (2021), Anaemia, 30/6/2021, tại trang web https://www.who.int/health-topics/anaemia.a

22. Xiuli Zhang(2017), "Distribution of hemoglobin and prevalence of anemia in 10 ethnic minorities in China: A population-based, cross-sectional study", Medicine (Baltimore). 96(50), tr. e9286.

23. Yu Wu (2020), "Prevalence of anemia and sociodemographic characteristics among pregnant and non-pregnant women in southwest China: a longitudinal observational study", BMC Pregnancy Childbirth. 20(1), tr. 535.

ThS. Tiêu Cẩm Anh, TS.ĐD Huỳnh Thị Hồng Thu Trường Đại học Trà Vinh
https://suckhoeviet.org.vn

Tin liên quan

Yếu tố liên quan kiến thức, thái độ về biện pháp tránh thai của sinh viên điều dưỡng

Yếu tố liên quan kiến thức, thái độ về biện pháp tránh thai của sinh viên điều dưỡng

Tóm tắt: Biện pháp tránh thai (BPTT) là hành động ngăn ngừa mang thai. Đây có thể là một thiết bị, một loại thuốc, một quy trình hoặc một hành vi. Tránh thai cho phép mọi người kiểm soát sức khoẻ sinh sản và khả năng tham gia tích cực vào kế hoạch hóa gia đình.
Yếu tố liên quan kiến thức, thái độ về phòng ngừa biến chứng tăng huyết áp của người bệnh

Yếu tố liên quan kiến thức, thái độ về phòng ngừa biến chứng tăng huyết áp của người bệnh

Tăng huyết áp là nguyên nhân chính dẫn đến các bệnh về tim mạch, não, thận và các bệnh khác gây tử vong lớn nhất toàn cầu (Nguyễn Ngọc Cẩm Duyên và cộng sự, 2022). Tăng huyết áp toàn cầu phần lớn không được kiểm soát và tăng huyết áp vẫn là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do bệnh không lây nhiễm trên toàn Thế giới (De Bhailis Á. M, Kalra. P. A, 2022).
Tỉ lệ rối loạn lo âu xã hội và một số yếu tố liên quan trên bệnh nhân mụn trứng cá

Tỉ lệ rối loạn lo âu xã hội và một số yếu tố liên quan trên bệnh nhân mụn trứng cá

Rối loạn lo âu xã hội (Social Anxiety Disorder - SAD) được xem là một trong những phân nhóm phổ biến và gây ảnh hưởng nghiêm trọng nhất trong các rối loạn lo âu. Rối loạn này đặc trưng bởi nỗi sợ hãi mãnh liệt khi phải đối mặt với các tình huống giao tiếp xã hội hoặc biểu hiện trước đám đông, nơi cá nhân cảm thấy mình bị người khác chú ý hoặc đánh giá. Tình trạng này thường dẫn đến sự căng thẳng, hành vi né tránh và gây ảnh hưởng tiêu cực đến chức năng sinh hoạt hàng ngày, hiệu quả học tập hoặc làm việc, cũng như chất lượng cuộc sống nói chung. Một số nghiên cứu gần đây đã chỉ ra mối liên hệ tiềm năng giữa rối loạn lo âu xã hội và các bệnh da liễu, đặc biệt là mụn trứng cá – một trong những tình trạng da phổ biến nhất ở thanh thiếu niên và người trẻ tuổi. Tính chất dễ nhận thấy và kéo dài của mụn trứng cá có thể dẫn đến sự lo lắng về hình thể, giảm lòng tự trọng và tăng nhạy cảm với việc bị đánh giá trong xã hội – tất cả đều là các yếu tố nguy cơ làm gia tăng khả năng phát triển rối loạn lo âu xã hội. Tuy nhiên, tại Việt Nam hiện nay vẫn chưa có nghiên cứu nào khảo sát về tỷ lệ mắc rối loạn lo âu xã hội ở bệnh nhân bị mụn trứng cá cũng như các yếu tố tâm lý – xã hội liên quan.

Cùng chuyên mục

Khảo sát mối liên hệ giữa thể bệnh Guilain - Barré và các hội chứng bệnh cảnh Nuy chứng hướng thượng của Y học cổ truyền

Khảo sát mối liên hệ giữa thể bệnh Guilain - Barré và các hội chứng bệnh cảnh Nuy chứng hướng thượng của Y học cổ truyền

Tóm tắt: Hội chứng Guillain-Barré theo YHHĐ là tình trạng xuất hiện những rối loạn thần kinh - cơ mà trong đó hệ thống miễn dịch của cơ thể tấn công các dây thần kinh ngoại biên gây ra tổn thương hủy myelin và thậm chí có thể mô thần kinh.
Bước đầu tìm hiểu mối liên hệ “Thời bệnh” Y học cổ truyền và bệnh truyền nhiễm

Bước đầu tìm hiểu mối liên hệ “Thời bệnh” Y học cổ truyền và bệnh truyền nhiễm

Tóm tắt: Bệnh truyền nhiễm của Y học hiện đại (YHHĐ) được mô tả trong bệnh cảnh “Thời bệnh” của Y học cổ truyền (YHCT). Trên thế giới và ở Việt Nam chưa có công trình nào nghiên cứu về “mối liên hệ “Thời bệnh” và bệnh truyền nhiễm” nên chúng tôi nghiên cứu bước đầu để tìm hiểu về vấn đề này nhằm chẩn đoán, kê toa thuốc cũng như tiên lượng bệnh đạt được hiệu quả tốt hơn.
Kinh nghiệm chẩn đoán bệnh trĩ trong hội chứng bệnh cảnh hậu môn trĩ ngoại khoa Y học cổ truyền

Kinh nghiệm chẩn đoán bệnh trĩ trong hội chứng bệnh cảnh hậu môn trĩ ngoại khoa Y học cổ truyền

Theo quan niệm của y văn cổ: “Trĩ là bộ phận bị sa ra ngoài. Ở mũi gọi là Tỵ trĩ, vùng Hạ tiêu gồm âm đỉnh (sa sinh dục), sa trôn trê (sa trực tràng), huyết trĩ (búi máu hậu môn) gọi chung là Hạ trĩ. Từ Hậu môn sa ra (sa trôn trê, huyết trĩ) gọi là Hậu môn trĩ.
Tế bào T qua trung gian Cytokine yếu tố chính trong á sừng do viêm da dị ứng

Tế bào T qua trung gian Cytokine yếu tố chính trong á sừng do viêm da dị ứng

Tóm tắt: Á sừng là bệnh viêm da dị ứng (AD) mãn tính được đặc trưng bởi rối loạn chức năng hàng rào da, rối loạn đáp ứng miễn dịch và sinh học với khuẩn lạc của Staphylococcus. Sự xâm nhập của nhiều tập hợp tế bào trợ giúp T khác nhau vào vùng da bị tổn thương và sau đó giải phóng cytokine là dấu hiệu đặc trưng của AD. Sự giải phóng các cytokine bởi cả tế bào T và tế bào sừng đóng vai trò chính trong tình trạng viêm da và gây ra bệnh AD.
Kinh nghiệm chẩn đoán chứng “Năng thương” Y học cổ truyền tại bệnh viện 30.4 Bộ Công an

Kinh nghiệm chẩn đoán chứng “Năng thương” Y học cổ truyền tại bệnh viện 30.4 Bộ Công an

Bỏng là một tai nạn sinh hoạt thường gặp nhất, xếp sau tai nạn chấn thương. Bỏng do nhiệt ướt chiếm đa số chiếm 53-61%. Bỏng ở bề mặt nặng dần từ nông vào sâu, từ ngoài vào trong. Sức nhiệt càng cao thì mức phá hủy càng sâu.
Phân loại viêm mũi xoang-  chứng Tỵ uyên theo học thuyết Thương hàn luận của Y học cổ truyền

Phân loại viêm mũi xoang- chứng Tỵ uyên theo học thuyết Thương hàn luận của Y học cổ truyền

Bệnh viêm mũi xoang là bệnh khá phổ biến trên toàn thế giới. Điều tra dịch tễ bệnh viêm xoang cấp tại Mỹ: cứ 7 người thì có 1 người bị viêm mũi xoang cấp (tương đương 30 triệu người mắc mỗi năm).

Các tin khác

Kinh nghiệm điều trị tiền mãn kinh bằng thuốc YHCT tại Bệnh viên 30.4 - Bộ Công an

Kinh nghiệm điều trị tiền mãn kinh bằng thuốc YHCT tại Bệnh viên 30.4 - Bộ Công an

Y học cổ truyền mô tả các triệu chứng của mãn kinh và tiền mãn kinh trong phạm vi chứng Kinh Đoạn (Kinh Đoạn Tiền Hậu Giả Chứng – kinh có kỳ mất theo độ tuổi gây ra triệu chứng thể chất có khả năng hồi phục). Ngày nay Kinh Đoạn mô tả các triệu chứng đặc biệt của người nữ trước khi hết kinh vĩnh viễn theo sinh lý lứa tuổi cần phải chữa trị vì nặng có thể ảnh hưởng đến thực thể.
Những kỹ thuật Ngoại khoa Y học cổ truyền theo kinh nghiệm dân gian

Những kỹ thuật Ngoại khoa Y học cổ truyền theo kinh nghiệm dân gian

Quy trình kỹ thuật là tài liệu hướng dẫn chuyên môn kỹ thuật trong khám bệnh, chữa bệnh, là cơ sở pháp lý để thực hiện tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trong toàn quốc được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định, đồng thời là cơ sở để xây dựng giá dịch vụ kỹ thuật, phân loại thủ thuật, phẫu thuật và những nội dung liên quan khác.
Tác dụng của châm cứu, cấy chỉ, nhĩ châm trong điều trị suy thận qua các nghiên cứu quốc tế

Tác dụng của châm cứu, cấy chỉ, nhĩ châm trong điều trị suy thận qua các nghiên cứu quốc tế

Suy thận mạn gây ra nhiều biến chứng và ảnh hưởng xấu đến chất lượng cuộc sống. Các liệu pháp y học cổ truyền như châm cứu, cấy chỉ và nhĩ châm đã được nghiên cứu quốc tế nhờ khả năng điều hòa hệ miễn dịch, cải thiện tuần hoàn và hỗ trợ chức năng thận. Bên cạnh đó, các nghiên cứu cũng chỉ ra tác động của châm cứu đối với hệ HPA.
Viêm mũi dị ứng và các bệnh cảnh của chứng Tỵ cừu, Tỵ lậu theo Lục kinh hình chứng của Y học cổ truyền

Viêm mũi dị ứng và các bệnh cảnh của chứng Tỵ cừu, Tỵ lậu theo Lục kinh hình chứng của Y học cổ truyền

Viêm mũi dị ứng là tình trạng viêm niêm mạc mũi biểu hiện bằng các triệu chứng hắt hơi liên tục, nghẹt mũi, ngứa và chảy mũi qua trung gian kháng thể và xảy ra do tiếp xúc với dị nguyên trong không khí như phấn hoa, lông động vật, lông sâu, bướm, khói bụi mà không phải do virus, vi khuẩn. Theo điều tra dịch tễ Bộ Y tế có 8% dân số từng mắc viêm mũi dị ứng và theo bệnh Viện Tai Mũi Họng Sài Gòn có 30% bệnh nhân viêm mũi dị ứng diễn tiến đến hen suyễn và 80% bệnh nhân hen có viêm mũi dị ứng.
Tác động của thói quen ngủ đến sức khỏe tinh thần và thể chất

Tác động của thói quen ngủ đến sức khỏe tinh thần và thể chất

Tóm tắt: Trong nhịp sống hiện đại, giấc ngủ thường bị xem nhẹ do áp lực công việc, thói quen thức khuya hoặc lạm dụng thiết bị điện tử. Tuy nhiên, các nghiên cứu khoa học gần đây đã chứng minh rằng giấc ngủ đóng vai trò then chốt trong việc duy trì sức khỏe thể chất và tinh thần. Ngủ không đủ giờ hoặc chất lượng kém có thể dẫn đến hàng loạt vấn đề như suy giảm miễn dịch, rối loạn chuyển hóa, trầm cảm, thậm chí làm tăng nguy cơ mắc bệnh thoái hóa thần kinh. Bài viết này sẽ phân tích chi tiết tác động của giấc ngủ đến cơ thể, đồng thời đề xuất các biện pháp khoa học để cải thiện chất lượng giấc ngủ.
Chương trình giảng ứng dụng thừa kế thuốc Nam thầy Nguyễn Kiều

Chương trình giảng ứng dụng thừa kế thuốc Nam thầy Nguyễn Kiều

(SKV) - Thầy Nguyễn Kiều là một trong những người có công lớn trong việc sáng lập và phát triển Trường Y học cổ truyền Tuệ Tĩnh – cái nôi đã đào tạo nên biết bao thế hệ thầy thuốc tài năng và đầy tâm huyết. Với lòng nhiệt thành và đam mê mãnh liệt dành cho Y học dân tộc, thầy không chỉ là người giảng dạy mà còn là nhà nghiên cứu kiệt xuất, luôn cần mẫn sưu tầm, gìn giữ, phát huy giá trị của thuốc Nam trong điều trị bệnh.
Vì một Việt Nam khỏe mạnh - Đã đến lúc hành động quyết liệt

Vì một Việt Nam khỏe mạnh - Đã đến lúc hành động quyết liệt

Một chuỗi những vụ việc không thể nhắm mắt làm ngơ, đó là gần đây, người tiêu dùng cả nước liên tiếp đón nhận những thông tin chấn động như: Thuốc giả, thuốc kém chất lượng được tuồn vào bệnh viện, khiến bệnh nhân mất cơ hội chữa bệnh. Thực phẩm chức năng trá hình thuốc chữa bệnh, quảng cáo sai sự thật tràn lan trên mạng xã hội. Sữa công thức giả, pha trộn chất lạ, khiến hàng ngàn trẻ em đứng trước nguy cơ suy dinh dưỡng, thậm chí ngộ độc. Và mới nhất, vụ “lòng xe điếu” đang len lỏi vào từng bữa ăn, mâm cơm gia đình…
Tăng thuế thuốc lá để bảo vệ sức khỏe cộng đồng

Tăng thuế thuốc lá để bảo vệ sức khỏe cộng đồng

Thuốc lá là một trong những sản phẩm hợp pháp nhưng gây hại nhất cho sức khỏe con người mà nhân loại từng biết đến. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), mỗi năm, thuốc lá giết chết hơn 8 triệu người trên toàn cầu, trong đó có khoảng 1,2 triệu người không hút thuốc nhưng vẫn phải tiếp xúc thụ động với khói thuốc. Tại Việt Nam, số người tử vong do thuốc lá cao hơn cả tử vong vì tai nạn giao thông, HIV/AIDS và sốt rét cộng lại. Tuy nhiên, điều nguy hiểm hơn cả là mức độ “bình thường hóa” của thuốc lá trong xã hội: hút thuốc vẫn được xem là thói quen phổ biến, đặc biệt ở nam giới và nhóm lao động phổ thông.
Hội chứng chuyển hóa (HCCH) ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2

Hội chứng chuyển hóa (HCCH) ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2

Hội chứng chuyển hóa (Metabolic Syndrome – MetS) là tập hợp các rối loạn chuyển hóa như tăng đường huyết, tăng huyết áp, rối loạn lipid máu và béo bụng, thường đi kèm với tình trạng kháng insulin. Ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2 (ĐTĐ típ 2), tỷ lệ mắc MetS rất cao, dao động từ 60–80% tùy theo tiêu chí chẩn đoán.
THỰC TRẠNG HÚT THUỐC LÁ Ở NAM GIỚI THÀNH PHỐ VỊ THANH, TỈNH HẬU GIANG NĂM 2022 VÀ HIỆU QUẢ CỦA PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG VỀ TÁC HẠI CỦA HÚT THUỐC LÁ

THỰC TRẠNG HÚT THUỐC LÁ Ở NAM GIỚI THÀNH PHỐ VỊ THANH, TỈNH HẬU GIANG NĂM 2022 VÀ HIỆU QUẢ CỦA PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG VỀ TÁC HẠI CỦA HÚT THUỐC LÁ

Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 420 nam giới từ 15 tuổi trở lên nhằm khảo sát thực trạng hút thuốc lá tại thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang năm 2022. Kết quả cho thấy tỷ lệ nam giới hút thuốc lá là 77,62%, cao gấp ba lần so với tỷ lệ không hút (22,38%). Trong số người hút thuốc lá, tỷ lệ hút dưới 5 năm chiếm 37,31%, từ 5–10 năm chiếm 40,30% và trên 10 năm là 22,39%. Về số điếu hút mỗi ngày, 71,84% hút dưới 10 điếu/ngày, còn lại 28,16% hút trên 10 điếu. Tỷ lệ người hút thường xuyên là 46,19%, thỉnh thoảng là 49,29%, 4,52% từ chối trả lời.
Xem thêm
Phiên bản di động