Các yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành về phòng chống thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ có thai người dân tộc Khmer
Từ khóa: Thiếu máu; Thai phụ.
DOI: https://doi.org/10.63472/sucv.06202514
Summary
One of the major health issues among pregnant women is anemia, with nutritional anemia being the most common and most critical form in terms of public health impact. Anemia during pregnancy remains a significant public health concern in many countries. However, efforts to care for and prevent nutritional anemia among pregnant women still face numerous challenges, particularly in rural, mountainous, and remote areas, as well as regions inhabited by ethnic minorities, where economic and social conditions are difficult, educational levels are low, and outdated customs and practices persist. Therefore, to improve maternal health care, it is essential to gather accurate information on the health status of pregnant women, including data on their knowledge and practices related to the prevention of nutritional anemia—especially among Khmer ethnic women within the local healthcare system.
Keywords: Anemia; Pregnant women.
Ngày nhận bài: 03/5/2025
Ngày phản biện khoa học: 6/5/2025
Ngày duyệt đăng: 23/05/2025
Bài đăng trên Tạp chí in Sức Khỏe Việt số Tháng 5+6/2025
Mô tả các yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành về phòng chống thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ có thai người dân tộc Khmer. Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả nghiên cứu trên 316 đối tượng cho thấy: Có mối liên quan giữa tuổi, trình độ học vấn, kinh tế gia đình, nghề nghiệp của đối tượng với kiến thức (p<0,05)
Có mối liên quan giữa kinh tế gia đình của đối tượng với thực hành (p<0,05).
Có mối liên quan giữa kiến thức và thực hành về phòng chống thiếu máu dinh dưỡng của đối tượng (p < 0,05).
Đặt vấn đề
Một trong những vấn đề sức khỏe ở phụ nữ có thai là tình trạng thiếu máu, trong đó thiếu máu dinh dưỡng là phổ biến nhất và quan trọng hơn cả đối với sức khỏe cộng đồng{[21]. Thiếu máu ở phụ nữ mang thai là vấn đề lớn về sức khỏe cộng đồng tại nhiều quốc gia. Tuy nhiên, vẫn còn những khó khăn trong vấn đề chăm sóc, phòng chống thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ có thai tại các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, đời sống kinh tế, xã hội còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí còn thấp, phong tục tập quán lạc hậu. Do đó để cải thiện được việc chăm sóc sức khoẻ ở phụ nữ có thai thì việc có được những thông tin về tình hình sức khỏe, trong đó có số liệu về kiến thức, thực hành về phòng chống thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ có thai người dân tộc Khmer trong địa bàn quản lý là hết sức cần thiết[13].
Tổng quan y văn
1. Tổng quan về thiếu máu dinh dưỡng.
1.1. Một số khái niệm về thiếu máu dinh dưỡng.
Thiếu máu: Thiếu máu được định nghĩa là sự giảm nồng độ hemoglobin trong máu ngoại vi xuống dưới phạm vi tham chiếu cho độ tuổi và giới tính của một cá nhân, có thể do di truyền hoặc mắc phải và là kết quả của sự mất cân bằng giữa sản xuất hồng cầu và mất hồng cầu.[19]
Thiếu máu dinh dưỡng: Thiếu máu dinh dưỡng là tình trạng bệnh lý xảy ra khi hàm lượng hemoglobin (Hb) trong máu xuống thấp hơn bình thường do thiếu một hay nhiều chất dinh dưỡng cần thiết cho quá trình tạo máu bất kể lý do gì. Nồng độ Hb dưới 120 g/L ở PNTSS và dưới 110 g/L ở PNCT được coi là thiếu máu.[7]
Tình trạng sắt cạn kiệt: Tình trạng sắt cạn kiệt xảy ra khi sắt dự trữ trong cơ thể không còn được biểu hiện bằng nồng độ Ferritin huyết thanh thấp hơn 15µg/L đối với phụ nữ tuổi sinh sản . [6]
Tình trạng thiếu sắt: Thiếu sắt là sự suy giảm lượng sắt toàn cơ thể, đặc biệt là kho dự trữ sắt của đại thực bào và tế bào gan. Vì lượng sắt lớn nhất được tiêu thụ để tổng hợp hemoglobin (Hb) để tạo ra 200 tỷ hồng cầu mỗi ngày, thiếu máu là dấu hiệu rõ ràng hơn của tình trạng thiếu sắt, và thiếu máu do thiếu sắt thường được coi là đồng nghĩa với thiếu sắt.[15]
Thiếu máu do thiếu sắt: Thiếu máu thiếu sắt là tình trạng thiếu máu xảy ra do cơ thể không đủ sắt đáp ứng nhu cầu tạo hồng cầu vì những nguyên nhân khác nhau: Không cung cấp đủ nhu cầu sắt, mất sắt do mất máu mạn tính, rối loạn chuyển hoá sắt bẩm sinh.[14]
Tình trạng quá tải sắt: Tình trạng thừa sắt hay còn gọi là bệnh huyết sắc tố là sự tích tụ sắt trong cơ thể do bất kỳ nguyên nhân nào. Các nguyên nhân quan trọng nhất là bệnh huyết sắc tố di truyền, một rối loạn di truyền và tình trạng thừa sắt do truyền máu, có thể do truyền máu nhiều lần.[17]
1.2. Phương pháp đánh giá tình trạng thiếu máu dinh dưỡng.
Đánh giá trên cá thể:
Bảng 1.1 Nồng độ Hemoglobin của WHO được sử dụng để chẩn đoán thiếu máu ( g / L ) [20]
Dân số |
Không thiếu máu |
Thiếu máu |
||
Nhẹ |
Trung bình |
Nghiêm trọng |
||
Trẻ em ( 6-59 tháng tuổi) |
110 trở lên |
100-109 |
70-99 |
Dưới 70 |
Trẻ em ( 5-11 tuổi) |
115 trở lên |
110-114 |
80-109 |
Dưới 80 |
Trẻ em ( 12-14 tuổi) |
120 trở lên |
110-119 |
80-109 |
Dưới 80 |
Phụ nữ không mang thai ( 15 tuổi trở lên) |
120 trở lên |
110-119 |
80-109 |
Dưới 80 |
Phụ nữ mang thai |
110 trở lên |
100-109 |
70-99 |
Dưới 70 |
Nam ( 15 tuổi trở lên) |
130 trở lên |
110-129 |
80-109 |
Dưới 80 |
1.3. Chẩn đoán thiếu máu dinh dưỡng.
Biểu hiện lâm sàng của thiếu máu thường ít và âm thầm. Người bị thiếu máu có thể không tự nhận ra bệnh, điều đó gây khó khăn trong phòng chống bệnh này ở cộng đồng. Biểu hiện của thiếu máu nhẹ là: mệt mỏi, mất ngủ, kém tập trung.[12]
Ở phụ nữ có thai: Phổ biến là da xanh, niêm mạc nhợt (niêm mạc mắt, lợi), móng tay khum hình thìa, lòng bàn tay nhợt nhạt, đầu lưỡi có một đám những hạt sắc tố đỏ sẫm, mệt mỏi, khi thiếu máu nặng thường có dấu hiệu chóng mặt, tim đập mạnh, khó thở khi lao động gắng sức.[12]
Xét nghiệm thường dùng để chẩn đoán thiếu máu là định lượng Hemoglobin (Hb). Trẻ em dưới 5 tuổi và phụ nữ mang thai nếu Hb<11g/L và phụ nữ không có thai nếu Hb<12g/L được xác định là thiếu máu. [12]
1.4. Hậu quả của thiếu máu dinh dưỡng.
Ảnh hưởng tới khả năng lao động
Thiếu máu gây nên tình trạng thiếu ô xy ở các tổ chức, đặc biệt ở não, ở tim và ảnh hưởng đến hoạt động của các cơ do đó làm giảm khả năng lao động ở những người bị thiếu máu. Khi tình trạng thiếu máu được cải thiện thì năng suất lao động cũng tăng theo.[12]
Ảnh hưởng tới năng lực trí tuệ.
Người bị thiếu máu thường dễ bị mất ngủ, mệt mỏi, kém tập trung, dễ bị kích thích, khi già dễ bị mắc bệnh mất trí nhớ.[12]
Ảnh hưởng tới thai sản:
Phụ nữ bị thiếu máu khi có thai dễ bị sinh non, tăng tỷ lệ mắc bệnh và tử vong của mẹ và con khi sinh nở, dễ bị chảy máu và bị mắc các bệnh nhiễm trùng ở thời kỳ hậu sản. Vì vậy người ta coi thiếu máu dinh dưỡng trong thời kỳ mang thai là một đe dọa sản khoa.[12]
Giảm sức đề kháng của cơ thể
Phụ nữ bị thiếu máu dinh dưỡng dễ bị ốm, dễ bị mắc các bệnh nhiễm trùng.[12]
Ảnh hưởng tới sự phát triển của trẻ
Thiếu máu do thiếu sắt gây ảnh hưởng tới sự phát triển trí tuệ và vận động của trẻ, làm tăng tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong. Một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ em là bị suy dinh dưỡng ngay trong thời kỳ bào thai. Nguyên nhân này thường do thiếu hụt các vi chất dinh dưỡng, đặc biệt là thiếu sắt, làm giảm phát triển chiều cao, cân nặng và chức năng của hệ thống miễn dịch. Hậu quả gián tiếp của thiếu máu là làm giảm năng suất lao động và ảnh hưởng không tốt tới sự phát triển trí tuệ, vận động, giảm các chỉ số phát triển, chỉ số thông minh của trẻ em lứa tuổi tiền học đường và học đường. Thiếu máu do thiếu sắt ảnh hưởng tới trẻ từ 6 tới 24 tháng tuổi, làm giảm khả năng tập trung, giảm hoạt động thể lực, tăng sự căng thẳng và mệt mỏi. Tùy vào độ tuổi khi xuất hiện thiếu máu và mức độ thiếu máu, uống viên sắt có thể cải thiện tình trạng này, tuy nhiên một số hậu quả trí tuệ cũng như nhận thức xã hội có thể sẽ tồn tại mãi mãi.[12]
1.5. Yếu tố liên quan đến phòng chống thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ có thai:
Tuổi của PNMT: Nhiều nghiên cứu đã chứng minh tuổi của người mẹ khi mang thai có liên quan đến tình trạng thiếu máu. Nghiên cứu của Phạm Thị Đan Thanh tại Bạc Liêu (2010) cũng cho thấy PNMT trên 35 tuổi có nguy cơ thiếu máu cao gấp 3,6 lần so với PNMT các nhóm tuổi còn lại . Tác giả Lê Thị Thùy Trang cũng đã tiến hành nghiên cứu tại huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình (2016), kết quả cũng cho thấy PNMT trên 35 tuổi có nguy cơ thiếu máu cao gấp 2 lần so với PNMT ≤ 35 tuổi .[19],[21]
Tuổi thai: Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Thanh cho thấy PNCT có tuổi thai : 3 tháng đầu, 3 tháng giữa, 3 tháng cuối, có tỷ lệ kiến thức đạt tương ứng là (44,9%;50%;50%), tỷ lệ chưa đạt tương ứng là (55,1%, 50%, 50% ), và thực hành đạt tương ứng là ( 29,6%;31,7%;31,1%), tỷ lệ thực hành chưa đạt là ( 70,4%, 68,3%, 68,9 %).[18]
Trình độ văn hoá: phản ánh sự hiểu biết của đối tượng về nhiều vấn đề trong đó có cả các vấn đề dinh dưỡng trong thời kỳ mang thai, ngoài ra còn liên quan đến khả năng tìm hiểu thông tin của các đối tượng. Các đối tượng có trình độ càng cao thì việc hiểu biết có thể sẽ nhiều hơn và việc tìm kiếm các thông tin về vấn đề mang thai cũng dễ dàng hơn. Nhận thấy các đối tượng nghiên cứu có trình độ không cao, tỷ lệ đối tượng có trình độ tiểu học và THCS là cao nhất chiếm đến 78,9%, các đối tượng THPT là 20,6%, trên THPT là 2,0% và tỷ lệ mù chữ là 0,6%. Đo các đối tượng chủ yếu sống bằng nông nghiệp nên có trình độ tượng đối thấp.[18]
Về nghề nghiệp nhận thấy các đối tượng có phân bố nghề khá đều, với tỷ lệ đối tượng làm nghề buôn bán là 19,4%, nông dân chiếm tỷ lệ cao nhất với 40,0%, công nhân là 14,7%, cán bộ CNVC là 6,6% và nội trợ là 20,3%.[18]
Kinh tế gia đình cũng khá quan trọng, đảm bảo cho sự đáp ứng các nhu cầu cần thiết cho phụ nữ mang thai, nhận thấy có đến 86,9% đối tượng có kinh tế gia đình không nghèo và còn lại 13,1% đối tượng là nghèo và cận nghèo. Các đối tượng có kinh tế khó khăn có liên quan đến chất lượng cuộc sống, từ đó liên quan đến chất lượng thai sinh, trong đó có tình trạng thiếu máu thiếu sắt.[18]
1.6. Tình hình nghiên cứu thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ có thai người dân tộc thiểu số trên thế giới và Việt Nam.
1.6.1. Trên thế giới:
Theo nghiên cứu của Xiuli Zhang và các cộng sự năm 2017 về phân bố huyết sắc tố và tỷ lệ thiếu máu ở 10 dân tộc thiểu số ở Trung Quốc cho thấy tỷ lệ thiếu máu ở Tây Tạng, Chuang và Uygur là rất cao (lần lượt là 46,9%, 25,4% và 21,4%), trong khi tỷ lệ mắc bệnh ở Yi và Hui rất thấp, lần lượt là 10,6% và 13,8%. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng tỷ lệ thiếu máu cao rõ rệt của người Tây Tạng có thể liên quan đến môi trường thiếu oxy của vùng cao nguyên Tây Tạng. Tỷ lệ thiếu máu của nhóm Yi (10,6%) thấp nhất trong mười dân tộc. Lý do có thể là do chế độ ăn uống cân bằng của Yi bao gồm ngô, thịt bò và thịt cừu, rau và trái cây có lợi cho việc hấp thụ sắt và vitamin. Người dân Hui rất thích thịt bò và thịt cừu, và họ sống ở những vùng có giao thông thuận tiện, kinh tế cao nên họ ít bị thiếu máu do thiếu sắt.[22]
Nghiên cứu của D.Sharma và các cộng sự cho thấy tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ có thai dân tộc Dalit là 22,4%, dân tộc Janajati có hoàn cảnh khó khăn là 42,9% và dân tộc nhóm thượng lưu là 15,4%. Nghiên cứu cũng cho thấy tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ mang thai ở vùng núi cao, miền trung tây Nepal thấp hơn so với phụ nữ mang thai trung bình ở Nepal. Tuổi và độ tuổi của phụ nữ được coi là những yếu tố dự báo đáng kể mức hemoglobin. Tỷ lệ thiếu máu thay đổi theo dân tộc, tuổi tác và lứa tuổi. Sự xuất hiện của thiếu máu có liên quan đến dân tộc trong dân số nghiên cứu. Những phụ nữ Janajati có hoàn cảnh khó khăn có nhiều khả năng bị thiếu máu hơn so với nhóm thượng lưu. Nghiên cứu chỉ ra nhu cầu của một cuộc nghiên cứu rộng rãi dựa trên cộng đồng ở những vùng núi hẻo lánh, để xác định chính xác mức độ thiếu máu và mối liên quan với các đặc điểm của phụ nữ.[16]
Nghiên cứu của Wu Y và các cộng sự tại Tây Nam Trung Quốc cho thấy tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ dân tộc thiểu số trong độ tuổi sinh sản năm 2014–2018 lần lượt là : Tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ Yi (20,4%), Hani (26,6%), Miao (23,2%) và các dân tộc thiểu số khác (22,9%) cao hơn đáng kể so với phụ nữ dân tộc Hán (17,0%). Nghiên cứu cũng cho thấy tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản đã giảm đáng kể từ 23,0% năm 2014 xuống 16,4% năm 2018. Trong những năm gần đây, tình trạng thiếu máu của phụ nữ dân tộc thiểu số ở Tây Nam Trung Quốc đã được cải thiện rõ ràng, điều này có thể liên quan đến phát triển kinh tế, nâng cao mức sống của người dân và cải thiện tình trạng dinh dưỡng của phụ nữ trong độ tuổi sinh sản ở Trung Quốc.[23]
Nghiên cứu của Tebogo T Leepile và các cộng sự tại vùng nông thôn Botswana cho thấy tỷ lệ phụ nữ dân tộc San có thai bị thiếu máu cao hơn (26%) so với phụ nữ không mang thai (12%). Tỷ lệ hiện mắc rất khác nhau tùy thuộc vào việc Hb được điều chỉnh theo độ cao, dân tộc và hút thuốc hay được điều chỉnh cho tất cả các yếu tố kết hợp . Nhìn chung, tỷ lệ thiếu máu của phụ nữ ở khu vực ven đô thị cao hơn so với khu vực nông thôn (20% so với 11%). Nghiên cứu cũng cho thấy rằng thiếu máu dao động rộng rãi tùy thuộc vào các yếu tố điều chỉnh Hb, với 6–26% ở phụ nữ không mang thai, 22–30% ở phụ nữ có thai và 35–63% ở trẻ em. Sau những điều chỉnh về dân tộc, tỷ lệ thiếu máu đã giảm đáng kể (phụ nữ: từ 22% xuống 7%; trẻ em: từ 63% xuống 35%).[18]
1.6.2. Việt Nam:
Nghiên cứu của Lê Thị Hương và Trần Thị Hồng Vân về tình trạng thiếu năng lượng trường diễn và thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ 20–35 tuổi người dân tộc Tày tại huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên năm 2017 được tiến hành trên 585 đối tượng cho thấy tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn chung là 16,4% trong đó tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn mức độ nhẹ, trung bình lần lượt là: 13,2% và 3,2%. Thiếu máu chung chiếm tỷ lệ 25,5% trong đó tỷ lệ thiếu máu mức độ nhẹ 21,7%; trung bình là 3,8%. Thiếu máu do thiếu sắt chiếm tỷ lệ cao 45,0%. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn và thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ người dân tộc Tày ở mức tương đối cao.[11]
Nghiên cứu của Đinh Khắc Dũng và các cộng sự đánh giá tình trạng dinh dưỡng và thiếu máu thiết sắt của phụ nữ tuổi sinh sản tại xã miền núi dân tộc thiểu số Khe Mo huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên cho thấy tình trạng thiếu máu, thiếu sắt, tỷ lệ thiếu máu chung là 36,7% (cao nhất là ở nhóm phụ nữ dân tộc Sán Chay – 39,3%, trong đó thiếu máu mức độ nhẹ là 89,5%, thiếu máu mức độ trung bình là 8,1%, thiếu máu mức độ nặng là 2,4%; nồng độ Hb ở mức đe dọa thiếu máu là 29,6%; tỷ lệ phụ nữ có dự trữ sắt thấp là 65,1%, trong đó mức dự trữ sắt cạn kiệt chiếm 39,3%, mức dự trữ sắt thấp chiếm 11,6%, mức dự trữ sắt khá thấp chiếm 49,1%. Trong nghiên cứu này tác giả chưa tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tình trạng dinh dưỡng và thiếu, máu sắt giữa các phụ nữ các dân tộc Nùng, Sán Chay, Kinh. [4]
Nghiên cứu của Đoàn Thị Thuỳ Dương và các cộng sự về Thực trạng thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ có thai người dân tộc M’Nông tại huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông năm 2019 cho thấy tỷ lệ thiếu máu ở PNCT người M’Nông là 37,9%, thiếu máu thiếu sắt là 33,8%. Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt chiếm 89,0% trong số PNCT thiếu máu. Thiếu máu thiếu sắt tăng theo các giai đoạn của thai kỳ, tỷ lệ ở 3 tháng đầu, giữa và cuối theo thứ tự là 12,2%, 32,7% và 55,1%. Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt rất cao (57,1%) ở phụ nữ có từ 3 con trở lên. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng thiếu sắt là nguyên nhân chính gây thiếu máu ở PNCT M’Nông, cao nhất ở 3 tháng cuối của kỳ thai và ở các bà mẹ có từ 3 con trở lên. Can thiệp bổ sung sắt cho PNCT, đặc biệt là các PNCT từ lần thứ 3 cần được triển khai ở địa bàn nghiên cứu.[5]
Tác giả Nguyễn Quang Dũng và Trần Thuý Nga (2015) nghiên cứu về thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ tuổi sinh sản người H’mông tại một số xã thuộc huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng cho thấy tỷ lệ thiếu máu là 31,9% và có xu hướng giảm dần theo nhóm tuổi. Tỷ lệ thiếu sắt ở nhóm 15 - 24,99 tuổi là 21,2%, nhóm 25 - 34,99 tuổi là 14,8% và nhóm 35 - 49,99 tuổi là 4,3%. Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt chung là 13,9%, trong ñó cao nhất ở nhóm 15 - 24,99 tuổi: 17,9%. Tỷ lệ thiếu máu nhưng không thiếu sắt là 18,8%. Trên phụ nữ tuổi sinh ñẻ người H’Mông, thiếu máu chiếm tỷ lệ cao, tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt ở nhóm trẻ tuổi có xu hướng cao hơn so với nhóm tuổi lớn hơn. [2]
Nghiên cứu của tác giả Huỳnh Nam Phương (2011) về tiếp thị xã hội với việc bổ sung sắt cho phụ nữ có thai dân tộc Mường ở tỉnh Hoà Bình cho thấy phụ nữ có thai dân tộc Mường ở Hoà Bình có kiến thức tương đối tốt về các điều kiện chăm sóc thai nhưng thực hành không đầy đủ. Có những hiểu biết cơ bản về phòng chống thiếu máu thiếu sắt (61,8% biết phụ nữ có thai và cho con bú là đối tượng hay mắc thiếu máu, 83,6% biết một triệu chứng đúng của thiếu máu, 87,0% biết ít nhất một ảnh hưởng của thiếu máu, 91,6% biết ít nhất một biện pháp phòng chống thiếu máu), tác dụng của viên sắt (có 89,9% biết về viên sắt và 79,8% biết tất cả phụ nữ có thai nên uống viên sắt) nhưng chỉ có 62,2% uống viên sắt và số uống hàng ngày chỉ chiếm 72,3%. Một số yếu tố ảnh hưởng đến uống viên sắt bổ sung đúng là nguồn thuốc có thường xuyên (ảnh hưởng đến 97% đối tượng), thuốc dễ uống (40%), giá cả phù hợp (60%), ảnh hưởng tốt đến sức khỏe (47%) và ít tác dụng phụ (24%).[9]
Nghiên cứu của Nguyễn Quang Dũng và các cộng sự (2017) về tình trạng thiếu máu ở phụ nữ tuổi sinh sản người Dao tại 4 xã thuộc huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng cho thấy tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ tuổi sinh sản người Dao tại 4 xã thuộc huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng là 31,3% và có xu hướng giảm dần theo nhóm tuổi. Tỷ lệ thiếu sắt ở nhóm 15-24 tuổi là 9,4%, nhóm 25-34 tuổi là 5,9% và nhóm 35-49 tuổi là 8,3%. Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt chung là 4,2%; trong đó cao nhất ở nhóm 15-24 tuổi: 6,3%. Tỷ lệ thiếu máu nhưng không thiếu sắt là 27,1%. Trên phụ nữ tuổi sinh sản người Dao, thiếu máu chiếm tỷ lệ cao.[3]
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu thiết kế mô tả cắt ngang. Thực hiện trên 316 phụ nữ có thai người dân tộc Khmer đến khám tại Bệnh viện Sản Nhi tỉnh Trà Vinh từ 04 - 06/2021. Với tiêu chí chọn vào: phụ nữ có thai là người dân tộc Khmer; Tự nguyện tham gia nghiên cứu; phụ nữ có thai hoàn toàn tỉnh táo, có đủ năng lực hành vi trả lời bằng câu hỏi khảo sát; Tiêu chí loại ra: Phụ nữ có thai đang trong giai đoạn chuyển dạ; Phụ nữ có thai bị mắc các bệnh về máu.
Chọn mẫu bằng kỹ thuật chọn mẫu thuận tiện cho đến khi đủ cỡ mẫu.
Quy trình thu thập số liệu gồm 3 bước: Bước 1: Liên hệ Bệnh viện xin phép thu thập số liệu. Bước Bước 2: Lựa chọn các đối tượng nghiên cứu phù hợp với tiêu chí chọn mẫu. Bước 3: Phỏng vấn đối tượng bằng bộ câu hỏi.
Nhập liệu bằng phần mềm Epidata, xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 25.0. Thống kê mô tả dùng tần số và tỷ lệ phần trăm.
Kết quả nghiên cứu
Tiến hành nghiên cứu kiến thức, thực hành về phòng chống thiếu máu dinh dưỡng và các yếu tố liên quan ở 316 phụ nữ mang thai tại Bệnh viện Sản Nhi Trà Vinh, kết quả như sau:
4.1 Các yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành phòng chống thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ có thai người dân tộc Khmer.
Tuổi: Trong đó các đối tượng ≤ 35 tuổi có kiến thức cao gấp 0,749 lần so với các đối tượng >35 tuổi. Qua kết quả này cho thấy các đồi tượng ≤ 35 có kiến thức cao hơn so với các đối tượng > 35 tuổi. Kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Lệ và Trương Quang Vinh cho thấy tỷ lệ tuổi người mẹ >35 tuổi nguy cơ thiếu máu thiếu sắt tăng gấp 2,5 lần nhóm 20-35 tuổi[12]. Kết quả của tác giả trên cao hơn so với nghiên cứu này. Nhận thấy các đối tượng mang thai trong độ tuổi sinh sản tốt nhất là khá cao, điều này cũng phù hợp với tình hình chung của nước ta, tại độ tuổi này việc mang thai là phù hợp nhất, vì các yếu tố tâm sinh lý của người phụ nữ là tốt nhất để thực hiện thiên chức của người mẹ. Sở dĩ có kết quả này là do ĐTNC có trình độ học vấn cao hơn, có tiếp nhận được các nguồn thông tin kiến thức qua nhiều kênh khác nhau.
Kinh tế gia đình: Trong đó các đối tượng không nghèo có kiến thức cao gấp 6,731 lần so với các đối tượng nghèo và cận nghèo, đồng thời có thực hành đạt cao gấp 2,126 lần so với các đối tượng nghèo và cận nghèo. Kết quả nghiên cứu của tác giả Đặng Hải Đăng và các cộng sự cho thấy kinh tế gia đình thuộc hộ cận nghèo và trung bình có tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt là 33,33% và 26,98% cao hơn nhóm thuộc khá giàu là 13,35%[6]. Kết quả của tác giả trên tương đương so với nghiên cứu này. Kinh tế gia đình cũng khá quan trọng, đảm bảo cho sự đáp ứng các nhu cầu cần thiết cho phụ nữ mang thai. Các đối tượng có kinh tế khó khăn có liên quan đến chất lượng cuộc sống, từ đó liên quan đến chất lượng thai sinh, trong đó có tình trạng thiếu máu thiếu sắt. Sở dĩ có kết quả này là vì các đối tượng nghèo đa số các đối tượng nghèo sống chủ yếu bằng nông nghiệp sẽ khó có thể tiếp cận các thông tin về kiến thức, thực hành về phòng chống thiếu máu dinh dưỡng.
Qua kết quả nghiên cứu cho thấy kiến thức là vấn đề quan trọng nhất liên quan đến thực hành của đối tượng. Mà cụ thể có mối liên quan giữa trình độ học vấn của đối tượng với kiến thức và thực hành của đối tượng.
Trong đó các đối tượng có trình độ ≥ THPT có kiến thức cao gấp 0,14 lần, đồng thời có thực hành đạt cao gấp 1,3 lần so với các đối tượng có kiến thức dưới THPT. Kết quả của nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Thanh với p< 0,001 có kết quả mối liên quan giữa trình độ học vấn với kiến thức, thực hành phòng chống thiếu máu dinh dưỡng. Kết quả cho thấy các đối tượng có trình độ ≥ THPT có kiến thức cao gấp 5,071 lần, đồng thời có thực hành đạt cao gấp 4,556 lần so với các đối tượng có kiến thức dưới THPT. Kết quả của tác giả trên cao hơn so với nghiên cứu của này. Trình độ phản ánh sự hiểu biết của đối tượng về nhiều vấn đề trong đó có cả các vấn đề dinh dưỡng trong thời kỳ mang thai, ngoài ra còn liên quan đến khả năng tìm hiểu thông tin của các đối tượng. Vì các đối tượng có học vấn trên THPT sẽ được tiếp cận nhiều hơn về công nghệ, về các kênh thông tin trên mạng Internet nên sẽ có kiến thức, thực hành cao hơn những người có trình độ học vấn dưới THPT.[10]
Nghề nghiệp các đối tượng là nông dân có kiến thức thấp hơn 1,3 lần so với các đối tượng khác. Kết quả của tác giả Trần Văn Vũ và Võ Minh Tuấn cho thấy có mối liên quan giữa nghề nghiệp và tình trạng thiếu máu thiếu sắt. Nhóm lao động chân tay làm tăng nguy cơ thiếu máu thiếu sắt lên gấp 2,7 lần so với nhóm nội trợ, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (OR = 2,72; KTC: 1,09 – 6,77; P = 0,031)[11]. Kết quả của tác giả trên cao hơn so với nghiên cứu này. Nghề nghệp có thể liên quan đến vấn đề dinh dưỡng của đối tượng từ đó liên quan đến tình trạng thiếu các chất dinh dưỡng thiết yếu của đối tượng đang mang thai, đồng thời một số ngành nghề còn có liên quan đến đến thai nhi khi phải tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ. Vì vậy nếu các đối tượng nếu đang mang thai cần tìm hiểu các yếu tố về môi trường làm việc có liên quan đến thai nhi hay không để có các biện pháp phù hợp phòng tránh. Sở dĩ có kết quả này là do các đối tượng nông dân đa số kinh tế của ĐTNC phụ thuộc vào nông nghiệp là chính, và đa số kinh tế của ĐTNC trong nhóm nghèo và cận nghèo nên ĐTNC sẽ khó có thể tiếp cận được những thông tin về các kiến thức phòng chống thiếu máu dinh dưỡng.
Ngoài ra cũng ghi nhận có mối liên quan giữa kiến thức và thực hành của đối tượng, trong đó các đối tượng có kiến thức trung bình thì có thực hành trung bình cao gấp 14,388 lần so với các đối tượng có kiến thức yếu. Kết quả của nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Thanh cũng ghi nhận có mối liên quan giữa kiến thức và thực hành của đối tượng, trong đó các đối tượng có kiến thức đạt thì có thực hành đạt cao gấp 3,957 lần so với các đối tượng có kiến thức chưa đạt[10]. Tỷ lệ các đối tượng có kiến thức đạt có thực hành đạt thấp hơn so với nghiên cứu này.
Từ kết quả trên cho thấy kiến thức chính là mấu chốt dẫn đến thực hành đạt của các đối tượng, vì vậy việc bổ sung kiến thức cho các đối tượng là rất cần thiết trong tình trạng hiện tại.
KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu trên 316 đối tượng cho thấy:Có mối liên quan giữa tuổi, trình độ học vấn, kinh tế gia đình, nghề nghiệp của đối tượng với kiến thức (p<0,05); Có mối liên quan giữa kinh tế gia đình của đối tượng với thực hành (p<0,05); Có mối liên quan giữa kiến thức và thực hành về phòng chống thiếu máu dinh dưỡng của đối tượng (p < 0,05).
Qua kết quả nghiên cứu này ghi nhận kiến thức là vấn đề quan trọng nhất liên quan đến thực hành của đối tượng.
Tài liệu tham khảo:
Tiếng Việt:
1. Lê Minh Chính (2010), "Thực trạng thiếu máu ở phụ nữ Sán Dìu trong thời kỳ mang thai tại huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên và hiệu quả của biện pháp can thiệp", Luận án Tiến sĩ Y học, tr. 9.
2. Nguyễn Quang Dũng, Trần Thuý Nga (2015), "Thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ tuổi sinh đẻ người H’mông tại một số xã thuộc huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng.", Tạp chí nghiên cứu Y học, tr. 107-113.
3. Nguyễn Quang Dũng, Nguyễn Văn Điệp, Lê Danh Tuyên (2017), "Tình trạng thiếu máu ở phụ nữ tuổi sinh đẻ người Dao tại 4 xã thuộc huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng", Tạp chí Y học dự phòng. Tập 27 (2), tr.100.
4. Nguyễn Thị Hiếu (2006), "Đánh giá tình trạng dinh dưỡng và thiếu máu thiết sắt của phụ nữ tuổi sinh đẻ tại xã miền núi dân tộc thiểu số Khe Mo huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên", Tạp chí Y học thực hành. 1/2008.
5. Nguyễn Thị Kim Lệ, Đoàn Thị Thuỳ Dương, Đinh Thị Phương Hoà (2019), "Thực trạng thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ có thai người dân tộc M’Nông tại huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông năm 2019", Đại học Y tế công cộng, tr. 46-53.
6. Hồ Thu Mai (2013), "Hiệu quả của truyền thông giáo dục và bổ sung viên sắt folic đối với tình trạng dinh dưỡng và thiếu máu của phụ nữ 20-35 tuổi tại 3 xã huyện Tân lạc tỉnh Hòa Bình", tr. 9 và 61.
7. Hoàng Thị Thu Nga (2017), "Hiệu quả bổ sung thực phẩm cho phụ nữ trước và trong khi có thai tới tình trạng dinh dưỡng, thiếu máu của phụ nữ có thai và trẻ 24 tuần tuổi", Luận án TS Dinh dưỡng, Viện dinh dưỡng, tr. 13.
8. Ngô Thị Kim Phụng, Phạm Thị Đan Thanh (2011), "Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt ở thai phụ ba tháng đầu thai kỳ tại Bạc Liêu ", Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh. Tập 15(1), tr. 3.
9. Huỳnh Nam Phương (2011), "Tiếp thị xã hội với việc bổ sung sắt cho phụ nữ có thai dân tộc Mường ở tỉnh Hoà Bình", Luận án Tiến sĩ Dinh dưỡng, Viện Dinh dưỡng quốc gia, tr. 65 và 127.
10. Nguyễn Thị Thanh (2019), "Kiến thức, thực hành về phòng chống thiếu máu thiếu sắt và các yếu tố liên quan ở phụ nữ mang thai tại huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang năm 2019", tr. 28-52.
11. Trần Thị Hồng Vân (2017), "Tình trạng thiếu năng lượng trường diễn và thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ 20–35 tuổi người dân tộc Tày tại huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên năm 2017", tr. 65.
12. Viện dinh dưỡng (2014), "Thiếu máu dinh dưỡng ở bà mẹ và trẻ em".
13. Viện dinh dưỡng quốc gia (2014), "Tỉ lệ thiếu máu ở Phụ nữ có thai theo tuổi thai".
14. Viện huyết học truyền máu trung ương (2020), "Thiếu máu thiếu sắt: Nguyên nhân, triệu chứng và điều trị".
Tiếng Anh:
15. Clara Camaschella (2019), "Iron deficiency", Blood and Bond Marrow Pathology,second. 133, tr. 30-39.
16. D. Sharma và các cộng sự (2020), "Hemoglobin levels and anemia evaluation among pregnant women in the remote and rural high lands of mid-western Nepal: a hospital based study", BMC Pregnancy Childbirth. 20(1), tr. 182.
17. Robert C Hider and Xiaole Kong (2013), "Chapter 8. Iron: Effect of Overload and Deficiency", Astrid Sigel, Helmut Sigel and Roland K. O. Sigel (ed.).
18. Tebogo.T. Leepile và các cộng sự (2021), "Anemia Prevalence and Anthropometric Status of Indigenous Women and Young Children in Rural Botswana: The San People", Nutrients. 13(4).
19. Wendy Erber (2011), "Investigation and classification of anemia", Blood and Bond Marrow Pathology,second, tr. 105-114.
20. WHO (2011), "Haemoglobin concentrations for the diagnosis of anaemia and assessment of severity ", tr. 3.
21. WHO (2021), Anaemia, 30/6/2021, tại trang web https://www.who.int/health-topics/anaemia.a
22. Xiuli Zhang(2017), "Distribution of hemoglobin and prevalence of anemia in 10 ethnic minorities in China: A population-based, cross-sectional study", Medicine (Baltimore). 96(50), tr. e9286.
23. Yu Wu (2020), "Prevalence of anemia and sociodemographic characteristics among pregnant and non-pregnant women in southwest China: a longitudinal observational study", BMC Pregnancy Childbirth. 20(1), tr. 535.
Tin liên quan

Yếu tố liên quan kiến thức, thái độ về biện pháp tránh thai của sinh viên điều dưỡng
16:00 | 14/03/2025 Bài báo Khoa học

Yếu tố liên quan kiến thức, thái độ về phòng ngừa biến chứng tăng huyết áp của người bệnh
11:00 | 12/03/2025 Bài báo Khoa học

Tỉ lệ rối loạn lo âu xã hội và một số yếu tố liên quan trên bệnh nhân mụn trứng cá
16:00 | 15/03/2025 Bài báo Khoa học
Cùng chuyên mục

Khảo sát mối liên hệ giữa thể bệnh Guilain - Barré và các hội chứng bệnh cảnh Nuy chứng hướng thượng của Y học cổ truyền
10:04 | 02/07/2025 Bài báo Khoa học

Bước đầu tìm hiểu mối liên hệ “Thời bệnh” Y học cổ truyền và bệnh truyền nhiễm
10:00 | 02/07/2025 Bài báo Khoa học

Kinh nghiệm chẩn đoán bệnh trĩ trong hội chứng bệnh cảnh hậu môn trĩ ngoại khoa Y học cổ truyền
09:57 | 02/07/2025 Bài báo Khoa học

Tế bào T qua trung gian Cytokine yếu tố chính trong á sừng do viêm da dị ứng
15:00 | 25/06/2025 Bài báo Khoa học

Kinh nghiệm chẩn đoán chứng “Năng thương” Y học cổ truyền tại bệnh viện 30.4 Bộ Công an
08:42 | 24/06/2025 Bài báo Khoa học

Phân loại viêm mũi xoang- chứng Tỵ uyên theo học thuyết Thương hàn luận của Y học cổ truyền
19:08 | 23/06/2025 Bài báo Khoa học
Các tin khác

Kinh nghiệm điều trị tiền mãn kinh bằng thuốc YHCT tại Bệnh viên 30.4 - Bộ Công an
19:08 | 23/06/2025 Bài báo Khoa học

Những kỹ thuật Ngoại khoa Y học cổ truyền theo kinh nghiệm dân gian
19:07 | 23/06/2025 Bài báo Khoa học

Tác dụng của châm cứu, cấy chỉ, nhĩ châm trong điều trị suy thận qua các nghiên cứu quốc tế
19:07 | 23/06/2025 Bài báo Khoa học

Viêm mũi dị ứng và các bệnh cảnh của chứng Tỵ cừu, Tỵ lậu theo Lục kinh hình chứng của Y học cổ truyền
18:06 | 23/06/2025 Bài báo Khoa học

Tác động của thói quen ngủ đến sức khỏe tinh thần và thể chất
09:00 | 23/06/2025 Bài báo Khoa học

Chương trình giảng ứng dụng thừa kế thuốc Nam thầy Nguyễn Kiều
08:25 | 20/06/2025 Bài báo Khoa học

Vì một Việt Nam khỏe mạnh - Đã đến lúc hành động quyết liệt
08:23 | 20/06/2025 Bài báo Khoa học

Tăng thuế thuốc lá để bảo vệ sức khỏe cộng đồng
08:23 | 20/06/2025 Bài báo Khoa học

Hội chứng chuyển hóa (HCCH) ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2
08:17 | 20/06/2025 Bài báo Khoa học

THỰC TRẠNG HÚT THUỐC LÁ Ở NAM GIỚI THÀNH PHỐ VỊ THANH, TỈNH HẬU GIANG NĂM 2022 VÀ HIỆU QUẢ CỦA PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG VỀ TÁC HẠI CỦA HÚT THUỐC LÁ
09:00 | 28/05/2025 Bài báo Khoa học