Tỉ lệ rối loạn lo âu xã hội và một số yếu tố liên quan trên bệnh nhân mụn trứng cá
Từ khóa: Rối loạn lo âu, mụn trứng cá.
Summary:
Social anxiety disorder (SAD) is recognized as one of the most common and impairing subtypes of anxiety disorders. It is characterized by an intense fear of social or performance situations where the individual may be scrutinized or judged by others. This condition often leads to significant distress and avoidance behaviors, negatively affecting daily functioning, academic or occupational performance, and overall quality of life. Recent studies have suggested a potential link between SAD and dermatological conditions, particularly acne, which is among the most prevalent skin disorders affecting adolescents and young adults. The visibility and chronic nature of acne can lead to body image concerns, low self-esteem, and heightened sensitivity to social evaluation — all of which may increase the risk of developing social anxiety. Despite this, in Vietnam, there is currently a lack of research investigating the prevalence of social anxiety disorder among acne patients and the associated psychosocial factors.
Keywords: Anxiety disorder, acne.
Ngày nhận bài: 5/02/2025
Ngày hoàn thiện biên tập: 12/03/2025
Ngày duyệt đăng: 15/03/2025
Bài đăng trên Tạp chí in Sức Khỏe Việt số Tháng 3+4/2025
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ rối loạn lo âu xã hội và một số yếu tố liên quan trên bệnh nhân mụn trứng cá.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả có phân tích 102 bệnh nhân mụn trứng cá đến khám tại bệnh viện Da liễu Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 3 đến tháng 6 năm 2024. Bộ câu hỏi về đặc điểm nhân khẩu học và lâm sàng mụn trứng cá, tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn lo âu xã hội DSM-5-TR, thang đo lường mức độ lo âu xã hội SAD-D, thang đo chỉ số chất lượng cuộc sống DLQI được áp dụng cho tất cả các bệnh nhân.
Kết quả: Tỉ lệ rối loạn lo âu xã hội trên bệnh nhân mụn trứng cá là 40,2%. Ở nhóm bệnh nhân có rối loạn lo âu xã hội, tỉ lệ mức độ lo âu xã hội lần lượt là nhẹ (21,95%), trung bình (75,61%) và nặng (2,44%). Ghi nhận mức độ chất lượng cuộc sống kém hơn và thời gian tập thể dục ít hơn ở nhóm có rối loạn lo âu xã hội so với nhóm không có rối loạn lo âu xã hội. Không ghi nhận sự khác biệt về mức độ nặng mụn trứng cá giữa hai nhóm có và không có rối loạn lo âu xã hội.
Kết luận: Rối loạn lo âu xã hội có tỉ lệ mắc cao trên bệnh nhân mụn trứng cá. Các yếu tố chất lượng cuộc sống và tập thể dục có mối tương quan với rối loạn lo âu xã hội trong khi mức độ mụn trứng cá thì không.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Rối loạn lo âu xã hội là một trong những phân loại rối loạn lo âu phổ biến nhất trong xã hội hiện đại. Tỉ lệ mắc bệnh ở người trên 18 tuổi lên tới 7,1% hàng năm. Đây là một loại rối loạn tâm thần mà người bị ảnh hưởng cảm thấy rất lo lắng, sợ hãi và tự ti khi đối diện với các tình huống xã hội. Với những người bị ảnh hưởng, nỗi sợ hãi và lo âu trong các tình huống xã hội thường trở nên áp đảo và gây trở ngại lớn đến cuộc sống hàng ngày.
Một trong những điểm đáng lưu tâm khi nghiên cứu về rối loạn lo âu xã hội là mối liên quan với tình trạng da liễu, đặc biệt là mụn trứng cá. Mụn trứng cá, hay còn gọi là bệnh trứng cá, là một bệnh lý da liễu mà hầu hết mọi người đều phải đối mặt trong suốt cuộc đời. Bệnh lý này thường xuất hiện do tăng hormone giới tính, gây tắc nghẽn lỗ chân lông và làm vi khuẩn gây viêm phát triển.
Mối liên hệ giữa rối loạn lo âu xã hội và mụn trứng cá là một mối quan hệ hai chiều. Dưới áp lực của tình trạng da không đẹp, những người bị mụn trứng cá thường sẽ mất tự tin vào ngoại hình, qua đó giảm lòng tự trọng nói chung. Những thái cực tâm lý này là một phần trong giả thuyết nhận thức - hành vi về quá trình hình thành và phát triển rối loạn lo âu xã hội. Ngược lại, căng thẳng tâm lý, lo âu khiến hệ thần kinh bị tác động, góp phần gây ra rối loạn nội tiết tố, làm tăng hoạt động của tuyến bã nhờn, làm da dễ bị nổi mụn hơn và làm nặng hơn tình trạng mụn đang có sẵn.
![]() |
Ở Việt Nam, việc nhận thức về rối loạn lo âu xã hội còn hạn chế nên một nghiên cứu về rối loạn này là cần thiết và đáng được quan tâm. Hơn nữa, làm rõ hơn mối liên hệ giữa rối loạn lo âu xã hội và mụn trứng cá có thể sẽ gợi ý cho các nhà lâm sàng việc tầm soát và nhận diện sớm rối loạn lo âu xã hội, qua đó giúp cho bệnh nhân có cơ hội can thiệp điều trị và cải thiện chất lượng cuộc sống. Đồng thời, theo hiểu biết của chúng tôi, hiện tại chưa có nghiên cứu nào khảo sát và phân tích mối liên quan giữa rối loạn lo âu xã hội và mụn trứng cá tại Việt Nam. Xuất phát từ thực tế này, chúng tôi tiến hành thực hiện nghiên cứu “Tỉ lệ rối loạn lo âu xã hội và một số yếu tố liên quan trên bệnh nhân mụn trứng cá”.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
102 bệnh nhân mụn trứng cá đến khám tại khoa Khám bệnh bệnh viện Da liễu Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 3/2024 đến tháng 6/2024.
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn
Bệnh nhân được chẩn đoán mụn trứng cá từ 18 tuổi trở lên kí đồng thuận tham gia nghiên cứu.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại
Bệnh nhân không thể trả lời phỏng vấn bằng tiếng Việt như câm, điếc hoặc người nước ngoài. Bệnh nhân sạch mụn sau điều trị. Bệnh nhân không hoàn thành toàn bộ cuộc phỏng vấn.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
2.2.2. Kỹ thuật chọn mẫu
Chọn mẫu thuận tiện.
2.2.3. Phương pháp thu thập số liệu
Bệnh nhân được phỏng vấn chẩn đoán rối loạn lo âu xã hội theo tiêu chuẩn DSM-5-TR, bao gồm 10 tiêu chí chẩn đoán phải được thoả mãn đồng thời.
Mức độ lo âu xã hội theo bộ câu hỏi đo lường mức độ lo âu xã hội (SAD-D), là công cụ đánh giá mức độ lo âu xã hội duy nhất dựa theo tiêu chí DSM-5-TR, gồm 10 câu hỏi với điểm số càng cao thì mức độ lo âu xã hội càng cao. Điểm số từ 0 đến 40 được phân thành 5 mức là không (0-9), nhẹ (10-19), trung bình (20-29), nặng (30-39) và rất nặng (40).
Mức độ chất lượng cuộc sống theo thang đo chỉ số chất lượng cuộc sống da liễu (DLQI) cũng bao gồm 10 câu hỏi với điểm số càng cao thì phản ánh mức độ ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bệnh da liễu đó càng nhiều. Điểm số được chia thành 5 mức là không ảnh hưởng (0-1), ít (25), trung bình (6-10), ảnh hưởng nhiều (11-20) và rất nhiều (21-30).
2.2.4 Biến số nghiên cứu
Một số biến số được khảo sát khác bao gồm đặc điểm nhân khẩu học, thời gian bị mụn, mức độ mụn trứng cá, tiền căn bệnh lý tâm thần, thói quen nặn mụn, cân nặng, chiều cao, thói quen tập thể dục, sử dụng mạng xã hội, thời gian ngủ.
2.2.5. Xử lý dữ liệu
Số liệu được xử lý bằng phần mềm Stata 14. Số liệu được tính thành tỉ lệ %, sử dụng phép kiểm X2, phép kiểm T 2 nhóm độc lập. Mô hình hồi quy logistic được sử dụng để xác định mối tương quan giữa rối loạn lo âu xã hội và các biến số độc lập. Kết quả có ý nghĩa thống kê khi p <0,05.
3. KẾT QUẢ
Bảng 1: Đặc điểm nhân khẩu học
![]() |
Hình 1. Tỉ lệ rối loạn lo âu xã hội trên bệnh nhân mụn trứng cá
![]() |
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 102 bệnh nhân mụn trứng cá, trong đó: tuổi trung vị của dân số nghiên cứu là 20, bệnh nhân trẻ nhất là 18, bệnh nhân lớn nhất là 35; tỉ lệ bệnh nhân nam gần ngang bằng với bệnh nhân nữ (48,04% và 51,96%), số bệnh nhân đến từ thành phố Hồ Chí Minh là 67,65%, có học vấn trình độ đại học trở lên chiếm 87,25%, bệnh nhân độc thân chiếm 96,08%. Đặc điểm nhân khẩu học ở 2 nhóm có và không có rối loạn lo âu xã hội không có khác biệt có ý nghĩa thống kê (Bảng 1).
Tỉ lệ bệnh nhân mụn trứng cá thoả tiêu chuẩn rối loạn lo âu xã hội trong nghiên cứu của chúng tôi là 40,2% (Hình 1).
Ở nhóm bệnh nhân có rối loạn lo âu xã hội, tỉ lệ mức độ lo âu xã hội lần lượt là nhẹ (21,95%), trung bình (75,61%) và nặng (2,44%) (Bảng 2).
Bảng 2. Mức độ rối loạn lo âu xã hội trên bệnh nhân mụn trứng cá theo thang SAD-D
![]() |
Các bệnh nhân không có rối loạn lo âu xã hội có điểm trung bình mức độ ảnh hưởng của mụn trứng cá lên chất lượng cuộc sống theo thang DLQI là 7,15 ± 4,21 so với nhóm bệnh nhân có rối loạn lo âu xã hội là 11,93 ± 4,83, kết quả có ý nghĩa thống kê (p <0,001) (Bảng 3).
Bảng 3. So sánh chất lượng cuộc sống theo thang đo DLQI của bệnh nhân có và không có rối loạn lo âu xã hội
![]() |
ĐLC: Độ lệch chuẩn; a: Kiểm định chi bình phương; b: Kiểm định T
Bảng 4. Kết quả phân tích hồi quy logistic đơn biến và đa biến các yếu tố liên quan với rối loạn lo âu xã hội trên bệnh nhân mụn trứng cá
![]() |
cOR: Tỉ số chênh thô; aOR: Tỉ số chênh hiệu chỉnh;
(a): Mô hình hồi quy logistic đa biến với 4 biến số có p <0,2 khi phân tích đơn biến, gồm: Tập thể dục, giấc ngủ, điểm DLQI, mức độ mụn
Sau khi hiệu chỉnh các biến số bằng mô hình hồi quy logistic đa biến thì mức độ mụn trứng cá ở 2 nhóm không còn sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Các yếu tố có liên quan có ý nghĩa thống kê (p <0,05) còn lại là không tập thể dục thường xuyên (aOR=5,86) và chất lượng cuộc sống theo thang điểm DLQI (aOR=1,28) (Bảng 4).
4. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm nhân khẩu học
Chúng tôi ghi nhận tuổi trung bình của dân số nghiên cứu là 21,54 ± 3,21 tuổi, dao động từ 18 đến 35 tuổi và tuổi trung vị là 20 tuổi. So sánh với các nghiên cứu trong nước, chúng tôi nhận thấy rằng độ tuổi của dân số nghiên cứu này thấp hơn một chút so với các nghiên cứu ở mụn trứng cá tại Thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) như nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Nhung có tuổi trung bình của bệnh nhân là 22,92 ± 4,7. Tuy vậy, các nghiên cứu đều cho thấy bệnh nhân đến khám mụn trứng cá phần lớn là người trẻ, phù hợp với đặc điểm dịch tễ cũng như cơ chế sinh bệnh của mụn trứng cá. Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhân tỉ lệ bệnh nhân nữ nhiều hơn so với bệnh nhân nam (51,96% với 48,04%). Tuy nhiên, tỉ lệ theo giới tính mà chúng tôi ghi nhận không chênh lệch nhiều như với các nghiên cứu khác ở bệnh viện Da liễu TPHCM. Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Nhung năm 2013 có tỉ lệ nữ và nam là 2:1. Tỉ lệ mụn trứng cá ở nam và nữ gần tương đương nhau trong nghiên cứu của chúng tôi có thể được lý giải rằng thời điểm hiện nay, nhu cầu điều trị về thẩm mỹ nói chung và mụn trứng cá nói riêng ở nam giới đang tăng lên. Các đặc điểm nhân khẩu học chiếm đa số như dân tộc kinh, trình độ học vấn đại học, nghề nghiệp học sinh - sinh viên, ở Thành phố Hồ Chí Minh, độc thân hoàn toàn phù hợp với độ tuổi của dân số nghiên cứu và địa điểm thực hiện nghiên cứu.
4.2. Tỉ lệ rối loạn lo âu xã hội trên bệnh nhân mụn trứng cá
Tỉ lệ rối loạn lo âu xã hội trên bệnh nhân mụn trứng cá trong nghiên cứu của chúng tôi là 40,2%. Tỉ lệ này thấp hơn so với các nghiên cứu như của Bez Y với kết quả là 45% và nghiên cứu của Sereflican B năm 2019 với kết quả là 66%. Tuy vậy, kết quả của chúng tôi cao hơn so với nghiên cứu của Verma T (36%). Sự khác biệt này có thể do nhiều lý do, bao gồm việc sử dụng nhiều công cụ chẩn đoán rối loạn lo âu xã hội khác nhau như DSM-IV, ICD-10 hay thang tự đánh giá LSAS. Một lý do khác có thể là sự khác biệt của đặc điểm dân số nghiên cứu. Các nghiên cứu có thể sử dụng các mẫu bệnh nhân khác nhau về cỡ mẫu, độ tuổi, giới tính, mức độ nghiêm trọng của mụn, và các yếu tố nhân khẩu học khác, dẫn đến sự khác biệt trong kết quả. Chúng tôi không thể khẳng định được tỉ lệ rối loạn lo âu xã hội ở bệnh nhân mụn trứng cá cao vượt trội so với những người không có mụn, vì theo nghiên cứu tại Việt Nam khảo sát rối loạn lo âu xã hội trên nhóm đối tượng sinh viên nói chung thì tỉ lệ rối loạn lo âu xã hội lên tới là 35,7%. Tuy nhiên, con số 40,2% là một con số cũng đủ để khẳng định rằng rối loạn lo âu xã hội có tỉ lệ mắc cao và là một yếu tố đáng để lưu tâm trên lâm sàng ở những người bị mụn trứng cá.
4.3. Mức độ bệnh rối loạn lo âu xã hội trên bệnh nhân mụn trứng cá theo thang SAD-D
Ở nhóm bệnh nhân có rối loạn lo âu xã hội, tỉ lệ mức độ lo âu xã hội lần lượt là nhẹ (21,95%), trung bình (75,61%) và nặng (2,44%). So sánh với nghiên cứu về tình trạng rối loạn lo âu xã hội ở sinh viên đại học Thái Nguyên năm 2023 thì trong 35,7% sinh viên có rối loạn lo âu xã hội thì tỉ lệ mức độ lo âu xã hội nặng chiếm khoảng 15%. Điều này có lẽ là do hình thức thu thập số liệu. Nghiên cứu của chúng tôi có hình thức thu thập số liệu là một cuộc phỏng vấn, trong khi nghiên cứu trên lựa chọn hình thức là bộ câu hỏi tự điền. Cuộc phỏng vấn của chúng tôi là một dạng tình huống xã hội nên những bệnh nhân có mức độ lo âu xã hội nặng có thể né tránh tham gian nghiên cứu, làm cho tỉ lệ bệnh nhân có mức độ lo âu xã hội nặng là rất ít và hoàn toàn không ghi nhận bệnh nhân nào có mức độ lo âu rất nặng.
4.4. Một số yếu tố liên quan với rối loạn lo âu xã hội trên bệnh nhân mụn trứng cá
Có sự khác biệt giữa mức độ ảnh hưởng của mụn trứng cá đến chất lượng cuộc sống giữa 2 nhóm có và không có rối loạn lo âu xã hội. Kết quả này tương đồng với kết quả của đa số nghiên cứu. Có thể giải thích rằng, ngay cả khi mụn trứng cá không quá nghiêm trọng về mặt sang thương lâm sàng, nhưng nếu người bệnh cảm thấy nó gây ảnh hưởng lớn đến ngoại hình và các mối quan hệ xã hội, họ sẽ có xu hướng lo lắng, tự ti và dễ mắc phải rối loạn lo âu xã hội hơn. Kết quả này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đánh giá không chỉ mức độ nghiêm trọng của tình trạng da mà còn cả tác động tâm lý của bệnh đối với người bệnh mụn trứng cá.
Nếu xét về mối liên quan giữa mức độ sang thương mụn trứng cá và rối loạn lo âu xã hội, khi phân tích đơn biến chúng tôi thấy mức độ sang thương mụn trứng cá nặng liên quan có ý nghĩa thống kê với rối loạn lo âu xã hội trong khi mức độ sang thương nhẹ hoặc trung bình thì không tìm thấy sự liên quan. Có lẽ điều này là do việc mụn trứng cá mức độ nặng gây biến dạng trầm trọng cho khuôn mặt, khiến cho người bệnh cảm thấy xấu hổ, giảm lòng tự trọng và sự tự tin về hình ảnh bản thân nhiều hơn. Tuy vậy, sau khi chúng tôi phân tích đa biến lại không thấy sự liên quan có ý nghĩa thống kê giữa 2 yếu tố nói trên. Kết quả này lại tương đồng với kết quả của nhiều nghiên cứu khác. Ví dụ như nghiên cứu của Yarpuz AY cho thấy không có sự liên quan của mức độ lo âu xã hội và mức độ nặng của mụn trứng cá, kể cả theo đánh giá chủ quan và khách quan. Khi phân chia nhóm mụn trứng cá thành 2 nhóm có và không có rối loạn lo âu xã hội theo tiêu chuẩn DSM-IV, nghiên cứu của Bez Y cũng cho kết quả tương tự.
Một yếu tố khác có liên quan với rối loạn lo âu xã hội sau khi phân tích đa biến là tập thể dục (>2 giờ/tuần). Trên thực tế, Zika MA sau khi tiến hành đánh giá hệ thống và phân tích tổng hợp các nghiên cứu khác nhau thì cho rằng tập thể dục nhịp điệu (Aerobic) là một phương pháp hữu hiệu trong việc hỗ trợ điều trị ở người rối loạn lo âu xã hội. Ở các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng, sự giảm triệu chứng lo âu xã hội của nhóm có hoạt động thể chất so với nhóm chứng là không có ý nghĩa thống kê (p=0,377). Tuy nhiên, đối với các nghiên cứu thiết kế theo chiều dọc thì các triệu chứng lo âu xã hội thấp hơn đáng kể được tìm thấy khi điều trị bằng hoạt động thể chất (d=−0,22, p= 0,001). Tương tự, trên các các nghiên cứu cắt ngang, mức độ triệu chứng của rối loạn lo âu xã hội thể hiện mối tương quan âm với thời lượng hoạt động thể chất (r=−0,12, p= 0,003).
5. KẾT LUẬN
Tỉ lệ rối loạn lo âu xã hội trên bệnh nhân mụn trứng cá là 40,2%. Ở nhóm bệnh nhân có rối loạn lo âu xã hội, tỉ lệ mức độ lo âu xã hội lần lượt là nhẹ (21,95%), trung bình (75,61%) và nặng (2,44%). Các yếu tố như chất lượng cuộc sống hay không tập thể dục thường xuyên có liên quan tới rối loạn lo âu xã hội. Trong khi đó, mức độ mụn trứng cá không liên quan tới rối loạn lo âu xã hội.
Tin liên quan
Yếu tố liên quan kiến thức, thái độ về biện pháp tránh thai của sinh viên điều dưỡng
16:00 | 14/03/2025 Bài báo Khoa học
Yếu tố liên quan kiến thức, thái độ về phòng ngừa biến chứng tăng huyết áp của người bệnh
11:00 | 12/03/2025 Bài báo Khoa học
Các yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành về phòng chống thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ có thai người dân tộc Khmer
12:23 | 23/05/2025 Bài báo Khoa học
Cùng chuyên mục
Đánh giá hiệu quả điều trị đau bằng phương pháp châm tả bằng kim tiêm kết hợp hút giảm áp tại bệnh viện PHCN tỉnh Lào Cai
07:25 | 20/10/2025 Bài báo Khoa học
Chảy máu nướu ( máu chân răng): Một số nguyên nhân và giải pháp khắc phục
21:12 | 09/10/2025 Bài báo Khoa học
Tổng quan hiệu quả điều trị đau thần kinh tọa bằng các phương pháp y học cổ truyền
15:54 | 03/10/2025 Bài báo Khoa học
Bệnh Quai bị: Tổng quan về virus, dịch tễ học, lâm sàng và chiến lược phòng ngừa
09:14 | 03/10/2025 Bài báo Khoa học
Các tin khác
Biến chứng y khoa từ việc tẩy nốt ruồi tại cơ sở thẩm mỹ không được cấp phép: Phân tích rủi ro và khuyến nghị
09:12 | 03/10/2025 Bài báo Khoa học
TỪ DI SẢN VĂN HÓA ĐẾN SỨ MỆNH CHĂM SÓC SỨC KHỎE CỘNG ĐỒNG
13:10 | 19/08/2025 Bài báo Khoa học
Tác động của mạng xã hội đến sức khỏe thể chất, tinh thần và nhận thức bản thân ở nữ giới từ 18–22 tuổi tại Việt Nam
09:03 | 28/07/2025 Bài báo Khoa học
Khảo sát mối liên hệ giữa thể bệnh Guilain - Barré và các hội chứng bệnh cảnh Nuy chứng hướng thượng của Y học cổ truyền
10:04 | 02/07/2025 Bài báo Khoa học
Bước đầu tìm hiểu mối liên hệ “Thời bệnh” Y học cổ truyền và bệnh truyền nhiễm
10:00 | 02/07/2025 Bài báo Khoa học
Kinh nghiệm chẩn đoán bệnh trĩ trong hội chứng bệnh cảnh hậu môn trĩ ngoại khoa Y học cổ truyền
09:57 | 02/07/2025 Bài báo Khoa học
Tế bào T qua trung gian Cytokine yếu tố chính trong á sừng do viêm da dị ứng
15:00 | 25/06/2025 Bài báo Khoa học
Kinh nghiệm chẩn đoán chứng “Năng thương” Y học cổ truyền tại bệnh viện 30.4 Bộ Công an
08:42 | 24/06/2025 Bài báo Khoa học
Phân loại viêm mũi xoang- chứng Tỵ uyên theo học thuyết Thương hàn luận của Y học cổ truyền
19:08 | 23/06/2025 Bài báo Khoa học
Kinh nghiệm điều trị tiền mãn kinh bằng thuốc YHCT tại Bệnh viên 30.4 - Bộ Công an
19:08 | 23/06/2025 Bài báo Khoa học





